Dưới Giàn Thiên Lý (truyện ngắn)

“Huấn ơi! Huấn! về mẹ bảo.”


Tiếng của chị Trang gọi vọng đến từ phía cửa sau nhà làm tôi hơi giật mình. Tôi không trả lời chị, vẫn chăm chú đưa mấy ngón tay phải đang cầm hòn bi có vân quả khế màu vàng cam, áp lên đầu ngón tay giữa của bàn tay trái, ngón cái tì xuống mặt đất, cúi đầu nhắm. Tôi bật mạnh ngón tay giữa, bắn hòn bi bay ra trúng phóc ngay đầu viên bi ve của thằng Hùng, được nó đặt nấp trong gờ đá cách cái “lò” khoảng hơn ba gang tay. Tôi hể hả bưóc đến nhặt viên bi của mình lăn ra gần đó, trong khi thằng Hùng đau khổ chạy theo viên bi ve, vừa bị bắn văng ra ba bốn bước chân, gần lọt vào rãnh cống thoát nước bên cạnh vách tường giậu. Tôi và nó đang chơi bắn bi ngoài đường hẻm và nó đang bị “hầm”.

- Huấn! về ngay. Mẹ đang chờ. - Tiếng chị Trang lại vọng đến, to và gắt hơn.



- Chị mày gọi kìa, thôi về đi. - Thằng Hùng láu lỉnh dụ khị tôi. Nó còn chần chừ chưa chịu tìm chỗ nấp cho viên bi của nó. Tôi khoác tay ra hiệu bất cần:


- Kệ, mày cứ lo thân mày đi.


Tôi đang được sung sướng ngự tọa canh cái “lò” - là một chỗ đất lõm xuống được đào bằng cách lấy đồng năm cắc ngoáy tới ngoáy lui vài lần - và bắn viên bi của Hùng, thằng bạn cùng xóm, trong khi nó phải tìm cách đưa hòn bi thoát khỏi tầm bắn của tôi, để về được lò. Điều này không phải là dễ cho nó, vì tuy Hùng là thằng chơi bắn bi khá, nhưng tôi cũng đâu phải là đứa mà nó có thể coi thường. Hai đứa tôi có tiếng là bắn bi giỏi trong xóm, bi nằm xa cả ba bốn bước chân vẫn có thể bắn trúng. Vừa rồi, tôi đã phải vất vả mới hạ được nó sau nhiều phút vờn nhau, tính toán. Nhờ một sự sơ ý của nó, và cũng là may mắn cho tôi, hòn bi của nó đã bị vướng vào một mô gạch nhỏ ngay chỗ viên bi của tôi đang nấp, khi nó quyết định bắn viên bi của tôi mà không trúng. Viên bi của nó lăn ra một bên, chỉ cách viên bi của tôi có hơn ba gang tay. Từ đó, tôi đã dễ dàng thực hiện thủ thuật “bung xoáy”, vừa bắn trúng bi nó ba lần liên tiếp vừa dồn cả hai hòn bi về gần “lò”. Cuối cùng, tôi chỉ cần đưa nhẹ viên bi của tôi vào “lò” ngay đó, và gang tay ra, bắn viên bi của nó một phát thật mạnh là nó đã bị “hầm”. Tôi mới “hầm” nó không bao lâu. Tôi còn luyến tiếc chưa muốn chạy về nhà ngay xem mẹ tôi gọi chuyện gì. Mẹ mà gọi giờ này thì chỉ có sai vặt, đi mua cái gì ngoài chợ hay ở tiệm tạp hoá gần nhà thôi. Về trễ một tí cũng không sao. Bố gọi mới lo. Bây giờ mà bỏ về thì thằng Hùng sẽ có lý do xí xóa hình phạt của nó. Nhưng tôi chưa kịp bắn viên bi của nó thêm một phát nào nữa, thì chị Trang đã đứng ngay cạnh lúc nào. Chị chống nạnh nạt to:


- Này! gọi rát cả cổ họng sao không về?


- Chị về trước đi, em về. -Tôi dùng dằng.


- Không! mẹ bảo về ngay. Chơi gì chơi lắm thế.


- Em mới chơi đây mà, còn đang “hầm” thằng Hùng. Để “hầm” nó xong đã. - Tuy đã rong chơi ngoài đường hẻm sau nhà có đến hai giờ đồng hồ nhưng tôi cũng nói láo hy vọng chị buông tha.


- Mới cái gì, chơi từ sáng đến giờ mà còn chưa chán hả. Về ngay không mẹ cho ăn roi mây bây giờ.


Chị Trang là chị kế, chỉ hơn tôi có hai tuổi và không cao hơn tôi bao nhiêu. Tuy người chị gầy và hay ốm đau nhưng tính chị lại nóng nẩy, cứng cỏi và bướng bỉnh như con trai. Khi chị đã phải đích thân ra tận nơi để bắt tôi về, thì chắc mẹ tôi có chuyện gì quan trọng lắm mới phải bảo chị như thế. Tôi đành tiếc rẻ nhặt hòn bi, nhét vào túi quần soọc rồi theo chị đi về, không quên quay đầu nói với thằng Hùng: “Tha cho mày đấy. Không có chị tao thì mày còn bị hầm dài dài.” Tôi quay đi, thằng Hùng còn nói với theo: “Mày về xong việc thì ra liền nghe. Tao qua nhà thằng Hưng đó.”


Về đến nhà đã thấy mẹ đứng ở sân sau, đang chăm chú nhìn một cái gói gì đấy bọc ny-lông bên ngoài, đặt trên mặt xi-măng của bể nước, trông bè bè mà có một hai sợi dây màu nâu đen chạy lằng ngoằng ở trên. Thấy tôi, mẹ ngước lên, nghiêm nét mặt:


- Sao mẹ bảo chị Trang gọi mãi mà không về? Đi chơi mất mặt từ sáng đến giờ. Lần sau là cho roi mây nghe chưa. Gớm, chân tay, đất với cát kìa. Bây giờ ra chái nhà phụ với mẹ.


Không biết mẹ tôi bắt tôi làm chuyện gì, nhưng không thấy mẹ rút roi mây là tôi yên chí rồi. Thật ra, mẹ tôi tuy nóng tính, hay la mắng, và hễ một tí là đem cái roi mây ra đe nẹt, nhưng mẹ cũng mau hạ hỏa. Nếu có đánh thì thường chỉ vút cho một hai cái rồi thôi. Trong nhà, không kể Duy là em trai tôi, thua tôi chín tuổi, mới sanh được bốn tháng, chỉ có tôi và chị Hạnh, chị cả, lớn hơn tôi mười tuổi, hồi chị chưa lấy chồng ra ở riêng, là ít khi nào bị mẹ đánh đòn. Chị Hạnh ít hay không bị đòn thì cũng đúng, vì chị là con cả, lại đã lớn. Riêng anh Huy, là anh hai, hơn tôi sáu tuổi, và chị Trang là hay bị đòn. Anh Huy thì rất thông minh, học giỏi, khéo tay khéo chân, hay bày ra nhiều trò chơi vui và thích trêu đùa, chọc ghẹo mọi người. Anh cũng rất láu lỉnh, hay đi chơi với bạn và ít để ý đến lời mẹ dặn. Mẹ sai hay nhờ gì thì anh chỉ làm những việc anh thích thôi, còn những gì không thích, anh làm nửa chừng, hay tìm cách tránh né, hoặc cứ lờ đi không làm. Thời gian vài năm trước là thời kỳ anh hay bị đòn nhất. Tôi nhớ có những lần tức quá, mẹ không nói không rằng, anh vừa đi đâu về mẹ đã cầm sẵn roi mây vút cho mấy cái trước rồi mới hỏi tội. Bị đòn vậy mà anh không sợ, không khóc. Mẹ mắng mãi rồi cũng chán cho đến bây giờ anh đã lớn, mẹ thôi không dùng đòn vọt nữa. Mẹ than với bố: “Con với cái gì nói không nghe, đánh cũng không chừa. Mà đánh nó, nó không đau, lại còn giựt mất cả roi nữa. Chỉ tổ đau tay mình.”  Bố tôi an ủi mẹ: “Cha mẹ sinh con trời sinh tính. Nó lớn rồi. Cái nết như vậy không thay đổi được đâu. Được cái nó thông minh, học giỏi cũng đỡ lo. Sau này ra đời tất sẽ tự thay đổi.” Phần chị Trang thì chỉ vì tính tình bướng bỉnh như con trai, hay cãi lại, làm mẹ bực mình mà cho chị ăn đòn. Mỗi khi chị bị đánh, cô An lại can thì mẹ bảo: “Con gái con đứa gì mà bướng với lì hơn con trai. Nói không bao giờ chịu nghe lời.” Mẹ giận thì nói vậy có phần oan cho chị, vì không phải lúc nào chị cũng không nghe lời. Chị chỉ không thích bị uốn nắn theo kiểu “tứ đức” cổ xưa: công dung ngôn hạnh, mà mẹ với cô An chăm chú huấn luyện cho chị. Cô An là em của mẹ, thua mẹ mấy tuổi. Anh chị em chúng tôi quen gọi bằng cô theo kiểu người Bắc chứ không gọi bằng dì như ở trong Nam. Cô theo bố mẹ di cư và ở chung luôn trong nhà. Người cô gầy xương và hay ốm đau bệnh tật, ăn uống thì kiêng khem đủ thứ, giống như người ăn chay. Có lẽ vì vậy nên cô không lập gia đình. Nhờ có cô can, những trận đòn của anh chị em chúng tôi đôi lúc được hoãn lại rồi quên hoặc chấm dứt nhanh chóng hơn.


Tôi theo mẹ ra chỗ chái nhà, tâm trí còn để cả vào mấy viên bi có vân trái khế xanh đỏ vàng đủ màu đang nằm trong túi quần soọc.


Nhà tôi có một dải đất rộng chừng bốn bước chân, chạy dọc theo tường nhà và hàng rào ngăn chia với nhà cụ Tấn hàng xóm gọi là cái chái nhà. Nếu đứng từ sân trước nhìn vào, cái chái nằm ở bên phải và thông từ đằng trước ra đằng sau nhà. Ở khoảng tường giữa nhà, có mở ra một cái cửa để có thể đi ra, đi vào giữa chái nhà và các buồng trong nhà, mà không phải dùng lối cửa trước hoặc sau. Ngày ấy, cái chái còn là nền đất, chỉ lót gạch một bên tường làm lối đi và mái che thì chỗ có chỗ không. Hàng rào với nhà cụ Tấn, khúc thì làm bằng những miếng gỗ tạp vá víu, khúc thì bằng những hàng cây dâm bụt chen lẫn mấy cây gì giống như cây khoai mì, và ngoài cùng, gần với dãy rào ngang đằng trước nhà là một giậu mồng tơi không biết có từ thời nào. Sâu bên trong chái, gần nhà bếp, nơi có mái lợp bằng tôn nhìn tương đối tử tế nhất, là chỗ để ba chiếc xe: Xe đạp của chị Hạnh - chị đã đi lấy chồng nhưng xe đạp vẫn để lại nhà cho chị Mai và tôi tập đi - xe đạp của anh Huy và cái xe gắn máy hiệu “Mô-bi-lét” của bố tôi. Dần ra phía giữa chái, bố mẹ tôi kê một cái xích-đông cũ - là cái kệ gỗ nhiều ngăn, trống hai đầu -  để đựng những thứ đồ đạc mà mẹ tôi thường bảo là “bỏ thì thương mà vương thì tội.” Tôi chẳng hiểu câu đó nghĩa là gì, đã thương thì sao lại còn tội? Chỉ biết có thứ mà cả mấy năm không thấy ai đụng chân đụng tay đến. Những lúc rỗi rảnh, mẹ sai tôi cùng soạn lại đống đồ đó cho gọn ghẽ nhưng sau khi mất cả giờ đồng hồ, cái xích-đông không những không bớt đi được món nào mà lại còn phải chất thêm vài ba thứ lỉnh kỉnh mà mẹ và cô An thu thập từ bao giờ. Bố tôi mỗi lần nhìn cái xích-đông lại ngán ngẩm nói: “Không biết mẹ mày với cô An làm gì mà giữ mấy cái đồ tám tật từ thời cố hoắng này lắm thế? Sao không quăng chúng nó đi cho rảnh nợ.” Từ giữa chái trở ra đằng trước, là khoảnh đất hầu như lộ thiên dùng để trồng cây. Mẹ và cô An trồng đủ các loại rau và cây ăn quả, hoặc cây có củ, dọc theo hàng rào như: húng quế, tía tô, kinh giới, giặc mùng, cải bẹ trắng, cải bẹ xanh, bí ngô, cà chua, cà pháo, đậu que, đậu ván, ớt, hành, gừng, nghệ…Có cả một giàn trồng bầu chung với mướp mà dây leo chằng chịt đan lẫn vào nhau, đến mùa đơm hoa, đậu quả thì dù đã được chỉ cho nhiều lần, hoa nào vào với quả nào tôi chẳng nhớ. Có lần thấy chị Hạnh phụ với mẹ cắt nhỏ nửa quả bầu và một quả mướp thành từng khoanh để xào chung với nhau làm món bầu mướp xào trứng, anh Huy tôi đã mượn câu ca dao để tức cảnh thành vè như sau:


“Bầu ơi thương lấy mướp cùng,
Xưa chung giàn giáo, nay chung nồi xào.”



Mẹ dẫu đang tức anh vì chuyện anh không chịu buộc lại mấy chỗ lỏng lẻo của giàn bầu mướp theo như lời mẹ dặn, cũng phải phì cười.


Ra đến chái nhà, mẹ tôi ngước mặt nhìn lên trời chỗ khoảng trống còn lại giữa đầu cái giàn bầu mướp và cái xích đông. Mẹ chép miệng:


- Cũng tạm được lúc ban đầu. Sau này mà nó lan ra nhiều thì phải bớt một trong hai cây kia.


Mẹ bảo tôi nhặt nhạnh thu dọn những thứ lặt vặt chung quanh chỗ mẹ đang đứng, nhổ bớt những cây đã già ở một khoảng đất cạnh hàng rào, rồi dùng cuốc nhỏ đào cho mẹ một cái hố cỡ bằng cái tĩn nước mắm to. Với sức con trai lên chín, tôi chỉ cần cuốc trong vài phút là xong. Tôi đoán mẹ tôi sắp sửa trồng cây gì nữa đây. Tôi ngừng tay, ngước nhìn mặt trời đã lên cao. Ánh nắng chói chang tỏa chan hòa xuống khu đất chỗ chái nhà. Tuy vậy thời tiết đang giữa mùa Xuân nên không nóng lắm. Những cây rau thơm, cải bẹ, bí ngô, đậu que, đậu ván sau khi được gieo hạt lại, đã lên mầm, ra búp, và đang trổ những lá non xanh như ngọc. Bầu, mướp cũng trồi cao mấy ngọn non ngồng, vươn những sợi râu xanh mướt óng ả như cánh tay bạch tuộc nhỏ quấn chặt lấy khung, dây dẫn của giàn, vững chắc đẩy ngọn chồi vượt lên, cao cỡ ngang tầm mặt tôi đang đứng. Vài con chuồn chuồn ớt, chuồn chuồn ngô chao qua lượn lại trên mấy ngọn cây, một con đứng yên giữa không trung, đập rung tít cánh, rồi lại bay đi mất.  


Mẹ bảo tôi:


- Được rồi, con đánh cho tơi đất ở trên ra, rồi vào rửa chân tay mặt mũi, sửa soạn ăn cơm. Ăn cơm xong nhớ đừng đi đâu. Ở nhà phụ bố đóng giàn.


- Mẹ định trồng cây gì hả mẹ? Nhà mình nhiều cây rồi mà mẹ.


- Ừ, bố mẹ trồng cây thiên lý. Nhà mình chưa có cây này.


- Cây gì nghe lạ vậy mẹ? Cây thiên lý là cây gì?


-Ờ, là.. cây thiên lý. Người ta gọi vậy. Thôi con đi rửa tay chân mặt mũi đi. Mẹ phải xuống dọn cơm. Bố sắp về rồi đấy.


Mẹ tôi đi nhanh xuống bếp, còn tôi ra sàn nước. Vừa rồi, nghe mẹ nói ăn cơm xong phải ở nhà phụ bố đóng giàn, tôi đã thấy chán. Như vậy là không được chạy đi chơi cũng đến hai tiếng là ít. Đó là không biết sau khi đóng giàn, bố hay mẹ có bắt tôi làm thêm việc gì nữa không? Hôm nay Chủ Nhật mà không được ra đường chơi với các bạn nhiều thì chán thật.


Sau bữa cơm trưa, nhân khi thấy bố tôi đang đứng cầm tách nước trà, mắt nhìn về phía giàn bầu, mướp, nét mặt vui vẻ, tôi tò mò hỏi:


- Bố, bố sắp đóng giàn cho cây thiên lý hả bố?


- Ừ, mẹ nói rồi phải không? - Bố tôi không nhìn tôi, trả lời.


-Vâng, mẹ nói hồi sáng. Mẹ bảo con đào một cái hố to thế này. - Tôi vòng hai bàn tay ra.


- Ừ, bố thấy rồi. Nhớ ở nhà, khi nào bố gọi thì ra phụ với bố đóng cái giàn.


- Đóng cạnh giàn bầu với giàn mướp hả bố?


- Ừ. - Bố đáp sau khi vừa uống xong một ngụm nước trà. Tôi có đà hỏi tiếp:


- Cây thiên lý có quả như cây bầu, cây mướp không bố?


- Không, nó không có quả, chỉ có hoa và lá thôi.


- Ơ, vậy bố mẹ trồng làm gì. Mà tại sao người ta gọi là cây thiên lý hả bố?


- Người ta gọi thế từ ngày xưa đến giờ.  Có sự tích về cây này nhưng để lúc nào thư thả bố kể cho. Mẹ thích hoa thiên lý lắm.


Bố tôi chỉ nói thế rồi bố đi đến chỗ cái bể chứa nước mưa ở cạnh bếp.


Bố tôi là một nhà giáo. Bố dạy học từ những ngày còn ở ngoài Bắc khi chưa lấy mẹ tôi. Sau khi đưa cả nhà di cư vào Nam năm 54 vì không thể sống trong chế độ Cộng Sản độc tài sắt máu, bố vừa dạy học vừa viết sách giáo khoa, viết truyện. Bố có tên trong ban biên tập báo “Tuổi Xanh”, là tờ tuần san dành cho thiếu nhi mà bố cùng một số bạn đồng nghiệp sáng lập. Tính bố nghiêm và khó trong việc học của con cái. Với chị Trang và tôi, bố chưa để ý gắt gao lắm tuy vẫn thường xuyên hỏi han bài vở, chắc vì hai chị em tôi còn nhỏ, nhưng với chị Hạnh và anh Huy, bố theo dõi chuyện trường lớp của anh chị, nhất là anh Huy, rất chặt chẽ. Bố thường nói: “Các con muốn có tương lai, sự nghiệp cao cả hay những vật chất đời thường như tiền của, danh vọng, địa vị, bằng cấp, xe hơi, nhà lầu, chồng hiền, vợ ngoan, con thảo, thức ăn ngon, quần áo đẹp, nói chung là mọi thứ trên đời này thì chỉ cần mở quyển sách ra mà tìm. Tất cả nằm trong đó chứ không cần đi tìm đâu cho xa xôi.” Bố còn răn dạy nhiều điều nữa cũng về chuyện phải chăm chỉ học hành. Tôi chưa nghiệm được hết ý nghĩa câu nói trên, nhưng cũng láng máng hiểu là phải cố gắng học nếu còn muốn “ngóc đầu lên với người ta” như bố kết luận trước khi chấm dứt lời giáo huấn. Đôi lúc mở quyển sách Toán ra, tôi cố tưởng tượng xem những điều tốt đẹp bố nói đang nằm ở đâu trong những trang giấy, nhưng chẳng thấy gì hấp dẫn mà chỉ thấy hoa mắt và nhức đầu. Tuy đặc biệt quan tâm đến việc học như vậy, nhưng bố vẫn dành thì giờ chú ý đến những nhu cầu giải trí, vui chơi lành mạnh cho cả gia đình trong những ngày nghỉ. Bố còn chú ý tu bổ nhà cửa, mua sắm đồ đạc cần thiết cho nơi ăn chốn ở. Ngoài những việc ấy ra, bố để mẹ toàn quyền quyết định những thứ chi tiêu về chợ búa, quà cáp, giao tế, điện, nước, tiền học, tiền sách vở, tiền tuần, tiền quần áo…của anh chị em chúng tôi. Bố cũng không xen vào việc dạy dỗ con cái của mẹ, trừ những việc có dính dáng đến bố hoặc những trường hợp quan trọng, mẹ nói lại cho bố nghe. Nói chung, bố là nguồn chủ lực kiếm tiền nuôi gia đình, mẹ tôi thì chỉ quán xuyến việc tề gia nội trợ thôi. Các bác tôi những lúc đến chơi, không có bố, thường bảo: “Bố các cháu cưng mẹ các cháu lắm đấy. Không bắt mẹ các cháu phải làm việc gì bên ngoài đâu, chỉ ở nhà làm cơm thôi. Ngày xưa, mẹ các cháu cũng được ông bà ngoại cưng chiều như vậy. Mà mẹ các cháu lấy được bố thì cũng có phước đấy chứ. Cái chân anh giáo là người ta quý lắm.” Nghe kể lại, ngày ấy bố đã phải lòng mẹ khi trong một lần, vào dịp nghỉ Hè, bố cùng người bạn đồng hương, cưỡi ngựa dạo chơi thăm phong cảnh hữu tình của một tỉnh làng bên cạnh nơi bố dạy học, nằm xuôi theo dòng sông Nhị. Bố bắt gặp hình dáng mẹ, cô thôn nữ mười bảy trong chiếc áo tứ thân, đang cùng các bác và cô tôi ngồi trên thuyền dưới chân cầu Lam, chuẩn bị đi lễ chùa. Bước chân du sơn ngoạn cảnh của bố đã quay lại nơi bến đò làng Lam Cầu không chỉ vài lần trong những tháng ngày sau đó. Bố tìm cách dò hỏi gốc gác, nhà cửa, gia đình của mẹ qua một vị đồng nghiệp tại huyện lỵ Lý Nhân. May mắn vị nhà giáo này lại là chỗ thân tình quen biết với nhà ông bà ngoại. Từ đó bố đã nhờ đánh tiếng, xưng danh, và rồi dần dần mới được ông bà ngoại chấp thuận cho làm quen với mẹ. Ông bà ngoại tôi vốn nhà gia giáo, nổi tiếng là dạy con rất nghiêm. Các bác và cô tôi đều kể lại là chị em trong nhà không ai dám tự tiện nói chuyện, hay nhận bất cứ món quà nào của người đàn ông con trai không quen biết. Mỗi lần cần ra ngoài là phải đi thưa về trình, và đi với chị với em hoặc với bà ngoại. Sau này khi vui câu chuyện, bố tôi thường nói với chúng tôi: “ Bố lấy được mẹ chúng mày thì còn vất vả hơn xin cưới tiểu thơ con quan đại thần, hay công chúa hoàng cung.” Mẹ tôi nghe chỉ tủm tỉm cười. Lúc không có bố, mẹ bảo anh chị em chúng tôi: “Bố các con nói quá đấy. Ngày xưa, ông bà ngoại chỉ khó với mẹ, và các bác các cô thôi. Khi thấy bố bảo là bố làm giáo học, lại có bác Quỳnh giới thiệu, thì ông bà đã chấp nhận rồi. Đâu có mà bắt khoan bắt nhặt gì nữa.” Mấy anh chị em tôi cứ ngớ ra không hiểu bố với mẹ, ai đúng ai sai. Về sau, trong một lần, không hiểu vì chuyện gì, mẹ giận bố, nhất định không đi chợ làm cơm, chỉ ở trong phòng. Bố lo lắng đi ra đi vào, mặt buồn xo không nói một lời. Khi đã năn nỉ làm hòa được với mẹ, bố đưa cả nhà đi ăn tối để mừng cho không khí gia đình đã vui vẻ trở lại. Bố mới cho chúng tôi biết thêm sự thật: “Bố thì chỉ sợ có mẹ mày thôi. Mẹ mày thế chứ mà khó lắm, hơi một chút là giận, bắt bẻ từng li từng tí một. Ngày bố mới quen làm sao, thì bây giờ vẫn y như vậy.” Rồi bố quay sang nhìn mẹ cười cười, âu yếm hỏi: “Có phải thế không mình?” Mẹ tôi chỉ biết đỏ mặt không nói câu nào. Bình thường, bố mẹ tôi vẫn dùng tiếng “mình” để gọi nhau như vậy.


- Mình tưới cho nó chưa vậy? - Bố vừa nói vừa nhìn vào cái gói có mấy sợi dây nâu đen đang đặt trên mặt bể nước, mà tôi đã thấy trên tay mẹ, khi vừa theo chị Trang bước vào nhà.


- Em tưới lúc nãy rồi. Mình đừng tưới thêm nữa nó ủng. - Mẹ tôi đang xếp bát đĩa vào cái giá cạnh đấy, ngẩng lên nhìn bố tôi rồi trả lời.


- Ừ, sáng mai mình nhớ trồng nó sớm. Nhớ đừng cho nhiều phân bón quá. Mùa này trồng cây được rồi. Anh phải nhờ anh giáo Thái có người quen ở Lục tỉnh  chiết hộ cho một nhánh. Cái thân nó chắc thế này là lên khỏe lắm đây.


Thấy bố mẹ tôi nói chuyện, tôi chạy đến cạnh bố, ghé mắt nhìn. Bố đang cầm cái sợi dây nâu đen lằng ngoằng, to gần bằng cái đũa xếp tròn lại cho gọn vào trong cái gói ny-lông trong có đất mùn. Tôi đoán có lẽ đó là cái nhánh cây thiên lý, nhưng sao không thấy có mầm, có lá gì hết. Tôi thắc mắc hỏi:


- Bố, cái dây này là cây thiên lý đó hả bố?


- Ừ, dây thiên lý đấy, nhưng nó là nhánh được chiết ra từ một cây đã trưởng thành, người ta gọi là “hom”. Trồng thiên lý thì phải trồng bằng “hom”.


- Sao nó không có mầm hay lá gì vậy bố.


- Ờ, khi nào hom mọc rễ nhiều thì nó sẽ ra mầm, ra lá.


- Sao bố mẹ không trồng nó ngay đi. Lúc nãy con đào xong hố đất cho nó rồi.


- À, con không biết. Đất mới đào chưa trồng cây ngay được, nhất là những loại dây leo còn mỏng manh yếu ớt như cái hom thiên lý này. Mình phải để ít nhất qua đêm cho đất nó ải ra đã. Bây giờ theo bố ra làm cái giàn.


Bố tôi nói rồi đi ngay ra chái nhà. Tôi lót tót theo sau. Bố bảo tôi phụ bố đem những cây gỗ to nhỏ dài ngắn lẫn lộn ở trước sân nhà mà bố đã mua sẵn từ mấy ngày qua, đem vào ngay chỗ hố đất sẽ trồng cây thiên lý. Bố dùng rìu vát cho nhọn một đầu của bốn cây gỗ to và dài nhất, xong bảo tôi cầm dựng đứng một cây, đầu nhọn xuống dưới cho bố dùng thang đứng lên, lấy búa tạ đóng ở đầu trên cho cây gỗ cắm sâu xuống đất. Lần lượt bốn cây gỗ to đã được dựng lên ở bốn góc của cái giàn hình chữ nhật dọc theo chái nhà. Bố đóng thêm hai cây nhỏ hơn ở giữa hai chiều dài. Mỗi lần đóng một cây gỗ đứng, bố lại bảo tôi nhắm xem cây đó có thẳng không, để bố kịp thời sửa lại nếu nó bị nghiêng. Sau khi đóng xong sáu cây gỗ đứng, là đến phần những thanh gỗ ngang. Những thanh gỗ này tiết diện nhỏ hơn cây gỗ đứng và dài ngắn đủ cỡ. Bố đo rồi cưa chúng, xong bảo tôi đứng lên ghế đẩu, cầm từng thanh giơ lên cao, tựa vào những cây gỗ đứng, cho bố dùng dây thép buộc chúng chặt vào nhau. Hai bố con tôi làm việc chừng hai giờ đồng hồ thì hoàn thành cái giàn. Một đầu giàn nối tiếp vào giàn bầu mướp, còn đầu kia ghé sát vào mái tôn, chỗ có để cái xích-đông. Cạnh nơi hố đất đã đào, bố cũng đóng hai cây gỗ cao đến đỉnh giàn để dây hoa thiên lý bám vào mà leo lên. Chiều cao của giàn, so như tôi, thì phải đứng trên cái ghế đẩu, giơ tay lên thì mới chạm được vào đỉnh giàn, nơi có những thanh gỗ mỏng, đan dọc ngang thành hình những ô vuông nhỏ. Ánh nắng xế chiều chiếu xiên qua giàn, in những ô bóng hình thoi trên người và trên mặt đất trông giống như hai bố con tôi đang bị bao trong một cái lưới hữu hình vô thực.


Khi hai bố con dọn dẹp xong đồ đạc, mẹ tôi tưới nhiều nước vào cái hố, đợi cho nước thấm vào hết xuống đất xong lại dùng cái cào nhỏ cời đất lên rồi tưới lần nữa. Mẹ bảo tôi lấy cái xô cũ giúp mẹ xúc nửa xô hỗn hợp phân bón làm bằng cỏ và lá cây mục trộn lẫn với phân gà lấy từ cái chuồng gà cạnh bếp, ủ trong cái thùng gỗ để gần giậu mồng tơi. Một mùi nồng nồng ai ai bốc ra từ thùng phân ủ nhưng không hôi. Mẹ nói:


- Cái này “hoai” rồi đây. Bón cây được rồi.


- “Hoai” là gì vậy mẹ. -Tôi thắc mắc hỏi.


- À, là hết nóng rồi, bón được rồi, không làm cây chết.


Câu trả lời của mẹ chẳng làm tôi hiểu rõ thêm ý nghĩa của chữ “hoai” mẹ vừa nói. Tại sao lại có nóng với lạnh ở đây? Có thấy đốt lửa gì đâu mà bảo nóng với hết nóng. Trước đây, tôi thấy mẹ hoặc cô An sau khi quét lá, nhổ cỏ cứ đổ vào cái thùng gỗ rồi đậy lại. Rồi mỗi lần hót phân gà từ cái khay nhôm, có rắc mạt cưa ở cái chuồng gà gần nhà bếp, đều đem trút vào đó. Thỉnh thoảng lại dùng cào, cào bới cho lá, cỏ, phân gà và mạt cưa trộn lẫn vào nhau. Khi tôi xách xô vào chỗ cái hố đất, mẹ dùng cái xẻng nhỏ xúc phân ủ, trộn lẫn vào đống đất đã đánh tơi nằm chung quanh miệng hố và cả dưới hố. Công việc chuẩn bị để trồng cây thiên lý đã xong. Mẹ nói: “Xong rồi. Con tắm rửa thay quần áo đi.” Mẹ tôi không nói thêm nữa, còn bố tôi cũng đã vào nhà từ lúc nãy, tôi biết là đã được tự do muốn làm gì thì làm. Thường thì khi đã thực hiện xong một hai công việc quan trọng mà bố hay mẹ sai bảo, tôi không lo bị la rầy hay đánh đòn, khi bỏ nhà chạy sang hàng xóm, hoặc lê la ngoài đường hẻm sau nhà chơi với chúng bạn.


Tôi áng chừng giờ này mới khoảng gần bốn giờ chiều. Tụi bạn có thể hãy còn tụ tập chơi bắn bi, đánh cù, đánh đáo, tạt lon, hay kẹt quá tấp vào chơi lò cò, nhảy dây, ô quan, giải gianh với cả mấy đứa con gái. Tôi quyết định không nghe lời mẹ đi tắm, mà chỉ rửa tay chân rồi chạy ngay vào phòng, lục thùng đựng đồ chơi, lấy một con cù và sợi dây dù bỏ vào túi quần. Kiểm tra lại, thấy ba hòn bi và mấy đồng tiền cắc mười xu, hai mươi xu hãy còn lạo xạo trong túi quần bên kia, tôi yên chí chờ lúc mẹ  không để ý, mở cửa sau chạy ra ngoài đường hẻm. Tôi biết bố tôi nếu không có mục cho anh chị em tôi đi xem xi-nê vào chiều Chủ Nhật, hay đi chơi đâu đó, thì thường hay ngồi đọc sách, viết bài, viết truyện, nên không sợ bố bất ngờ hỏi tới. Bố mà đang viết sách hay viết truyện thì liệu mà tránh xa, đừng đến gần hay hỏi bố cái gì. Bố có thể ngồi yên lặng viết đến mấy tiếng đồng hồ, quên cả giờ ăn cơm tối. Những lúc ấy đến cả mẹ tôi cũng phải “né” bố. Mẹ tôi răn đe anh chị em tôi: “Bố mà đang viết bài thì cấm có đứa nào đến gần nghe chưa. Đừng có mà làm bố mất câu chuyện rồi chỉ làm khổ mẹ.” Mẹ nói vậy chắc có đứa nào lỡ dại làm “mất câu chuyện” của bố, bị bố bực mình la mắng thì ít, mà mẹ chịu sự cằn nhằn khó chịu của bố vì không bảo được con cái thì nhiều.  Cô An thì từ ngày mẹ sinh em Duy, cô nhận làm chân mẹ nuôi, lúc nào cũng bận rộn bế ẵm, cho bú sữa, thay tã, tắm rửa cho em. Anh Huy thì đã lấy xe đạp chạy sang nhà bạn anh ấy từ sau lúc ăn cơm. Còn chị Trang thì tôi không phải để ý. Chị cũng lo đi chơi đằng chị, và giả sử chị có thấy tôi lẻn ra cửa thì chị cũng chẳng quan tâm mà mách bố mách mẹ. Chỉ khi nào người lớn gặng hỏi quá thì chị mới nói thôi.


Bước chân ra đường hẻm, tôi nhớ thằng Hùng ban sáng, lúc chia tay, nói nó sẽ qua nhà thằng Hưng chơi cái gì đó và rủ tôi khi nào xong việc thì qua. Nhưng từ bấy đến giờ lâu quá rồi, chắc nó không còn ở nhà thằng Hưng nữa. Hùng là đứa bạn cùng xóm với tôi. Nó bằng tuổi tôi và học cùng lớp. Nhà nó cách nhà tôi có ba căn. Bố nó mất sớm, mẹ nó còn ở vậy đi làm nuôi ba anh em nó ăn học. Tôi với nó rất hạp nhau về các trò chơi của trẻ con. Cái trò gì tôi biết, nó cũng biết và chơi ngang ngửa tôi. Ngoài thằng Hùng, thằng Hưng nhà ở đầu hẻm, con ông Bá làm sở điện lực, cũng là đứa ham chơi như Hùng và tôi nhưng thằng này chỉ chơi giỏi một số trò. Tôi đứng ra giữa hẻm, hướng mắt nhìn về cuối đường, không thấy mấy thằng bạn quen nào, chỉ có vài người lớn đang đứng nói chuyện gì đó. Chắc chúng nó phải ở trong nhà hoặc đã theo bố mẹ, anh chị chúng nó đi chơi đâu rồi. Tôi quyết định rảo bước đi tới cửa sau nhà thằng Hùng. Đến nơi tôi kiễng chân ghé mắt nhìn qua hàng rào vào sân sau nhà nó, hy vọng bắt gặp nó đang làm gì trong đó. Không thấy ai, chắc nó ở trong phòng. Tôi đưa tay lên làm loa nói to vọng vào nhà: “Hùng ơi! Có nhà không?” Không có tiếng trả lời. Tôi gọi thêm hai tiếng nữa cũng không động dạng gì. Đang tính bỏ đi qua nhà thằng Hưng thì chợt có tiếng cười hiền từ đằng sau lưng: “Huấn đấy à, Hùng nó đang chơi bên nhà ông Bá đấy cháu. Cháu tìm nó có việc gì thế?” Tôi quay lại và không cần nhìn cũng biết ngay đó là bác Mẫn, mẹ của Hùng. Không biết bác vừa đi đâu về. Chắc bác đi chợ hay từ mấy nhà hàng xóm nói chuyện xong quay về đây. Tôi vội trả lời: “ Thưa bác, cháu tìm Hùng chỉ rủ chơi thôi. Để cháu qua bên đó. Cháu chào bác.” Nói xong tôi chạy đi ngay không đợi bác Mẫn kịp nói thêm câu nào. Kinh nghiệm cho tôi biết, nếu còn chần chừ đứng lại là thế nào cũng bị bác hỏi han rỉ rả đủ thứ chuyện, không dứt ra được. Mà toàn những chuyện đã nghe hoặc trả lời từ nhiều lần trước rồi. Không biết tại bác rảnh rỗi quá, thì giờ vào những ngày giờ nghỉ không biết làm gì, hay tại cái tính của bác có sẵn như thế, gặp bất cứ ai không có can đảm cắt đứt câu chuyện, là bác có thể nói hàng giờ không mỏi miệng. Nhiều người lớn ngại gặp bác đã đành, cả mấy đứa con nít như tôi cũng phải tránh bác luôn. Được cái bác rất tốt với hàng xóm láng giềng và quý trẻ con nên không ai ghét bác. Người ta chỉ sợ cái tật nói dai nói dài, nói không dứt của bác thôi.


Để vào nhà ông bà Bá, ba má của Hưng, tôi phải đi bằng cửa trước. Nhà ông bà ở đầu đường, rộng chiều ngang nhưng lại ngắn chiều dài và không có cửa sau. Bên hông nhà cũng có cái cửa nhỏ nhưng lúc nào cũng khoá trái bên trong, chẳng bao giờ thấy mở. Đến gần cổng nhà, tôi đã nghe thấy tiếng thằng Hưng oang oang:


- Rồi! chết lăn quay rồi. Cho vào nướng luôn.


- Ê! tao còn sống mà, đâu đã chết. - Tiếng thằng Thành phản đối. Thành cũng là bạn trong xóm, nhà nó ở ngay cạnh nhà thằng Hưng.


- Mày chết ngắc rồi, quay được có một vòng rồi lăn cù lèo ra mà còn cãi. Có thằng Hùng làm chứng nè.


- Ê Hưng! mở cổng cho tao vào. – Tôi đập vào cánh cổng gọi to.


Mấy thằng bạn ngưng cãi vã. Hưng ra mở cổng, nó reo lên:


- Mày làm gì mà giờ này mới tới. Bộ ba má mày không cho đi chơi hả?


Tôi chưa kịp trả lời thì thằng Hùng hỏi tiếp theo, tay đang đu đưa sợi dây :


-Bộ mày bị đòn hả? Bị ăn mấy con lươn?


-Tao biết thế nào nó cũng tới. Thấy chưa. - Thằng Thành vừa nói vừa nhặt con cù của nó lên.


Tôi không trả lời chúng nó. Cái trò trẻ con cỡ tuổi tôi với chúng nó, gặp nhau thường ngày thì hỏi những câu thông thường, vớ vẩn ấy chỉ là thói quen bật ra từ cửa miệng làm cho bầu không khí ồn ào sôi động tự nhiên thôi. Đứa nói không mong có câu trả lời mà đứa nghe cũng không cần phải để ý đến. Lúc nãy, không cần nhìn mà chỉ nghe chúng nó nói chuyện lúc chưa vào sân nhà, tôi cũng biết chúng nó đang chơi đánh cù. Trong sân nhà thằng Hưng có khoảng đất trống ở góc vườn, gần gốc cây phi lao trồng sát hàng rào. Đây là chỗ bọn trẻ con chúng tôi hay rủ nhau chơi bắn bi, đánh đáo, tạt nút phéng, đánh cù…  Tôi lấy con cù trong túi ra nói:


- Chơi lại từ đầu đi. Tao chơi với.


-Ê, đâu được. Mày mới tới thì phải cho vào lò nướng chớ. - Thằng Hưng xua tay.


Lò nướng đây là một cái vòng tròn,vẽ bằng cách lấy cái que kem vạch trên mặt đất, to cỡ bằng cái vòng nhảy “hu-la-húp” của trẻ con. Theo lệ, khi đang chơi, có đứa nào muốn tham gia thì phải đặt con cù của nó vào cái vòng tròn đó chung với những con cù “chết”, tức là cù của những đứa đánh dở, hay xui xẻo, khi đánh ra bị va vào gạch, tường, hàng rào… mà không đứng quay được vài vòng trở lên. Những đứa đang “sống’ sẽ được “bổ” con cù của nó xuống những con cù “chết” cho đến khi nào nhờ những cú đánh đó, con cù “chết” văng ra ngoài cái “lò nướng” thì mới được “sống’ trở lại. Thường thì trước khi được cứu sống, con cù chết cũng bị ăn vài “vố” trở lên. “Vố” đây là dấu vết đinh ở con cù sống, khi “bổ” xuống, cắm vào thớ gỗ trên thân thể con cù chết. Nhiều đứa chơi ác, mài cho cái đinh thành hình dẹp như cái đục gỗ thợ mộc để khi đánh xuống sẽ cắm sâu vào, xé thớ thịt gỗ trên thân thể con cù chết cho tơi tả nhanh hơn. Mỗi khi một đứa nào đưa tay lên chuẩn bị quất cù của nó xuống thì những đứa khác đều tránh không đứng gần hướng mà con cù sẽ rơi xuống và văng ra. Vì chơi đánh cù khá nguy hiểm cho trẻ nhỏ nên các bậc cha mẹ thường cấm không cho chơi. Với trẻ lớn hơn thì phải chơi ở những nơi tương đối vắng người qua lại và không cho con nít lẩn quẩn chung quanh. Nhà ông bà Bá không có trẻ nhỏ, Hưng là con út, lại có sân rộng nên là nơi lý tưởng để trẻ con chúng tôi bày trò chơi đánh cù và có khi chơi phóng phi tiêu, bắn cung nữa. Tuy nhiên, không phải bất cứ đứa nào cũng có thể vào sân nhà ông bà Bá. Thằng Hưng nói ba nó tuy không cấm nó chơi với bạn hàng xóm nhưng ông “chọn mặt gửi vàng”, nghĩa là nó chỉ được cho vào sân nhà những đứa mà ông đã biết rõ mặt mũi người ngợm và tông tích gia phả. Tôi và vài đứa nữa may mắn nằm trong danh sách được tuyển lựa gắt gao đó.


-Thôi, chơi lại từ đầu đi. - Thằng Hùng cúi nhặt con cù của nó đang nằm trong “lò nướng” lên, đồng ý với tôi, ý chừng có lẽ vì con cù của nó bị nướng nãy giờ hơi lâu.


-Ừ, chơi từ đầu đi. Hưng, mày không muốn thi thì cho mày sống, còn thằng Huấn, thằng Hùng và tao thi. - Thằng Thành nhìn Hưng đề nghị.


- Rồi, tụi bây thi đi. Tao khỏi thi.


Hùng, Thành và tôi cùng quấn dây quanh con cù của mỗi đứa từ chỗ chấu đinh vòng lên trên. Thằng Hưng đứng ngoài hô to: “Một, hai, ba”. Cả ba con cù cùng được ba cánh tay giơ lên cao rồi quất mạnh xuống theo chiều hơi xiên qua một bên. Con cù của thằng Hùng, được nó tô màu mực xanh, đứng xoay tít sau khi chạm đất, nảy lên một lần và hơi uốn thân mình lượn một vòng. Hai con cù của thằng Thành và tôi cũng biểu diễn những động tác điêu luyện không kém, nhất là con “Hủ lô” của thằng Thành. Con cù này, anh thằng Thành nhân một chuyến đi Chợ Lớn thấy lạ nên mua về cho nó. Con này không giống như những con cù bán ở tiệm tạp hóa hay chợ gần nhà. Nó to hơn và được làm bằng loại gỗ gì màu đen, rất khó bị trầy trụa. Trên đầu có chạm khắc những hình nổi lạ mắt. Cái đinh gắn bên dưới cũng dài và cứng hơn. Con này nếu được đánh bởi những đứa chơi cù thành thạo thì sẽ là một khí cụ lợi hại so với những con cù thông thường. Thằng Thành rất thích con cù của nó. Mỗi lần chơi đánh cù, nó đều đem theo và mấy đứa chúng tôi đã tặng cho con cù này cái hỗn danh là “Hủ lô”.


Khi ba con cù bắt đầu quay chậm lại thì con của thằng Hùng vì đứng nhằm ngay chỗ đất mềm nên mau chóng ngắc ngoải rồi nằm lăn ra trên đất. Con cù của tôi, chỉ là loại thường, bằng gỗ tạp, nhưng may chọn được chỗ đất cứng nên tiếp tục ganh đua sức quay với con thằng Thành. Con “Hủ lô” tuy bị lạc vào vùng đất vừa lồi lõm vừa có sạn gạch nhưng nhờ cái chân cao và động lực tích tụ lớn nên vẫn hùng dũng vừa quay tít, vừa lắc lư rung động, vừa di chuyển điệu nghệ, xoáy chân đinh xuống mặt đất, hất tung lên những mảng cát bụi ra chung quanh như  một cơn lốc tí hon. Cuối cùng thì con cù của tôi cũng phải chịu thua con “Hủ lô”. Theo thông lệ khi ba người thi, con cù nào ngừng quay sau cùng được sống còn hai con kia phải chết và cho vào lò nướng. Thằng Hùng và tôi đặt cù của mỗi đứa vào giữa cái vòng tròn trong khi thằng Thành quấn dây con “Hủ lô”. Thằng Hưng thì vẫn đang sốt ruột nãy giờ. Bàn tay nó cầm con cù, đã quấn sẵn sợi dây dù, kẹp chấu đuôi vào giữa hai ngón tay áp út và ngón út, cứ đưa lên đưa xuống, nhắm tới nhắm lui vào giữa cái lò nướng. Tôi và thằng Hùng vừa đứng lên lùi ra bên ngoài thì thằng Hưng đã vung tay quất con cù của nó xuống thật mạnh, miệng hể hả:


- Mổ cho tụi bây một “dzố” nè!


- Hụt rồi Hưng. Coi tao nè. Cho tụi bây nếm mùi “Hủ lô” nè! - Thằng Thành cũng vừa quất con “Hủ lô” nối theo, vừa dương dương cái mặt.


Hai con cù đang nằm  giữa cái vòng tròn bị sức va chạm với con “Hủ lô” văng ra ngoài chu vi. Thằng Thành khoái chí reo lên:


-Hai ra hai dzô. Tụi bây cho dzô lại lẹ lên.


Vì không còn con nào trong lò nướng, tôi và thằng Hùng đều phải nhặt cù lên đặt lại vào giữa vòng. Cả hai đứa đều nóng ruột chỉ mong con cù của mình mau được “sống” lại trước khi bị ăn thêm nhiều “vố”, nhất là “vố” của con “Hủ lô”.


Cuộc chơi đánh cù của chúng tôi diễn ra sôi nổi và hào hứng với những lúc con “Hủ lô” của thằng Thành bị nướng một mình. Tức là dù được con cù của đứa khác đánh văng ra ngoài lò, nó vẫn không được “sống” lại. Nó phải chờ khi nào có thêm một con nữa “chết”, nằm chung trong lò mới được tính. Đây là cơ hội tốt để mấy đứa còn lại trả thù những lúc bị con “hủ lô” cho ăn “vố”. Trò chơi lẽ ra còn kéo dài hơn nữa nếu như không có tiếng của bà Bá gọi thằng Hưng vào chuẩn bị ăn cơm. Nghe nói đến ăn, tôi mới nhớ là phải về nhà kẻo bố hoặc mẹ lại đang muốn tìm tôi. Bình thường, khi có việc cần gấp, thế nào mẹ cũng bảo chị Trang chạy đi tìm. Chị biết hết những nơi tôi hay tấp vào chơi với các bạn. Nhưng cũng không cứ là như vậy. Có khi không thấy chị đi tìm mà khi về đến nhà lại bị mẹ mắng cho tơi bời, chẳng hiểu tại sao. Tôi và hai thằng Hùng, Thành cùng đi ra khỏi cổng nhà thằng Hưng, tay cầm con cù của mỗi đứa, xuýt xoa đau đớn cho những vết thương trầy sơn, tróc gỗ trên thân mình. Chúng nó chắc cũng như tôi, đầu óc tuy còn vương vất những pha đánh cù hấp dẫn, nhưng trong lòng đã bắt đầu rầu rĩ nghĩ đến bài vở ở trường, như bài Việt sử dài thoòng phải học thuộc hoặc mấy bài toán đố hóc búa chưa làm. Lát nữa đây sau giờ ăn tối, lại phải ngồi ra rả ra mà đọc hay vắt óc ra mà tính.


Về đến nhà, may quá, không thấy bố mẹ đâu, chị Trang đang lấy bát đũa bày biện trên bàn ăn ở mái hiên sân sau nhà, không đả động gì đến tôi. Chị mà không nói năng gì là điềm tốt rồi. Chứ vừa chạy chơi đâu về mà chị lên tiếng thì phải coi chừng. Những lời nói vào lúc đó của chị thường sẽ là những lời cảnh cáo về một nỗi bực mình khó chịu của bố hay mẹ đã dành cho tôi trong lúc tôi vắng nhà. Tôi rón rén bước nhanh vào phòng lấy quần áo sạch đi tắm. Có tiếng người và tiếng cười ở phòng khách. Hình như  tiếng bác Mẫn đang nói chuyện với mẹ tôi và cô An thì phải. Chắc bác lại sang lấy cớ hỏi thăm về em Duy để có dịp nói chuyện đây. Từ ngày mẹ sanh em Duy, bác Mẫn là khách thường trực của mẹ với cô An. Trước đây khi chưa có em. Bác cũng đã hay ghé vào nhà nhưng ít hơn. Đã hơn một lần tôi nghe mẹ nói với bố: “Gớm, cái bà Mẫn bà ấy nhiều chuyện quá. Mà sao chuyện gì của ai bà ấy cũng biết.” Cô An thì không than phiền về cái tật nói nhiều, biết nhiều chuyện của bác Mẫn nhưng cô có nhận xét riêng của cô: “Bà ấy nói một lúc rồi thể nào cũng hỏi thăm về thằng Huy nhà mình. Không biết có định làm mối cho đám nào không đây? Con Chiêu nhà bà ấy thì còn nhỏ quá, chắc không phải, nhưng biết đâu?” Tôi nhủ thầm: “Không cần để ý, chuyện của người lớn.” Mẹ tôi vẫn thường bảo như thế mỗi lần tôi tình cờ đứng hay ngồi gần chỗ mẹ và các bà hàng xóm đang nói chuyện với nhau. Mẹ vẫn bắt tôi phải đi chỗ khác chơi cho người lớn nói chuyện. Thật ra, mẹ chẳng cần phải nói tôi cũng chẳng muốn ở gần làm gì cho mất tự do. Mà kẹt quá không đi chỗ khác được thì với cái tuổi con nít vô tư, bản tính ham chơi, đầu óc tối ngày chỉ nghĩ đến những trò nghịch ngợm trẻ con thì dù người lớn có ngồi ngay bên cạnh mà nói rót vào tai cũng đừng lo là tôi có nhớ lấy một lời. Tôi vào phòng tắm xối ào ào, chà xà phòng qua loa, giội nước, lau người, mặc quần áo sạch rồi đi vào nhà chuẩn bị ăn cơm, quên cả chải đầu.


Vừa đến cửa phòng, bác Mẫn, mẹ tôi và cô An cũng từ phòng trong bước ra. Cô An tay bế em Duy bọc trong cái khăn bông to màu xanh da trời có hình mấy con gấu nhỏ ở một góc. Một vạt khăn đã quấn vào bên trong còn vạt kia bắt chéo ra ngoài, vòng xuống dưới lưng, vắt ngược lên trên bụng. Cái khăn che kín cả người em chỉ chừa phần đầu có chùm cái mũ len mỏng màu mỡ gà, cúp xuống hai bên tai, hai mắt mở to, miệng đang chúp chíp ngậm cái núm vú giả . Bác Mẫn vừa thấy tôi đã lên tiếng, miệng cười cười:


- Này Huấn à, bác vừa nói với mẹ và cô An là nhà bác rộng, không có em bé, bác đang thèm em bé, cháu cho bác em bé để bác nuôi nhé? Cháu sang ở bên nhà bác với em luôn thể cho vui nhé.


Bác hỏi đùa mà như thật. Cái kiểu nói chuyện của bác vẫn hay như thế. Với đứa con trai ngốc nghếch như tôi làm sao nghĩ ra được câu trả lời cho xứng với câu hỏi văn vẻ này đây. Tôi chỉ biết ngượng mặt đứng yên không nói năng gì, hy vọng mẹ hoặc cô An sẽ lên tiếng đỡ lời.


- Sao đầu tóc rối như tổ quạ thế này? Tắm chưa mà người ngợm chân tay còn đầy ghét
thế kia. Xà phòng còn dính đằng sau đầu kìa. Đi tắm lại đi.



Người lên tiếng là mẹ tôi, đỡ được câu trả lời bác Mẫn nhưng lại làm tôi xấu hổ với bác.
Tôi vội quay lại nhà tắm, vừa đi vừa ngẫm nghĩ  mẹ tôi sao mà khó tính quá, ở bẩn một tí  đã chết ai đâu mà lúc nào thấy tôi, mẹ cũng nhìn ra những khuyết điểm vệ sinh trên thân thể của tôi được. Nói về việc vệ sinh thân thể thì không phải dấu giếm ai cả, tôi nhận là tôi ở bẩn nhất trong nhà. Sau tôi là chị Trang. Ngày nào tôi hoặc đôi khi chị Trang mà không phải nghe những lời la mắng hay bực bội nhắc nhở về chuyện ăn ở sạch sẽ, giữ vệ sinh thì ngày đó là ba ngày Tết, hoặc nhà đang có khách đông và bận rộn đến độ người lớn không có thì giờ ngó ngàng gì đến hai chị em tôi. Những lời răn đe từ ngày còn năm sáu tuổi như: “Này, ở bẩn rồi ruồi nhặng nó bâu vào người, đêm nằm kiến nó tha đi mất, không biết đường về thì đừng có mà khóc nhé.” Hay là: “ Tắm mà không gội đầu xà phòng hay không kỳ ghét là cây nó mọc rễ trên đầu, trên người đấy, rồi chấy rận lại sinh ra. Đi ra ngoài đường người ta tưởng là ở trên rừng mới về, không xấu hổ à?” Có khi mẹ dọa: “Không giữ gìn người ngợm sạch sẽ, phát bệnh ra phải đi ông Đức chích thì đừng có trốn nhé.” Tôi công nhận tôi ở bẩn, bẩn tự nhiên chứ không phải tôi lười hay cố ý, nhưng không hiểu sao người lớn lại quan trọng hóa cái chuyện ở bẩn với ở sạch như vậy. Hình như có người nói ở bẩn sống lâu mà. Những lời đe dọa nghe mãi hóa nhàm, chẳng làm tôi e ngại. Chỉ có cái vụ chích thuốc là tôi hơi ngán một chút. Thỉnh thoảng nóng sốt nhức đầu, chóng mặt, bị lôi đi bác sĩ là tôi lại than thầm. Ông bác sĩ mặt lúc nào cũng nghiêm nghị, không cần biết tôi bệnh gì, cứ bắt phải è mông ra nhận hai mũi chích đau nhói. Thuốc gì chẳng rõ mà khi chích vào vừa buốt vừa ê hết hai mông đến cả giờ đồng hồ, vừa bước vừa lết. Ấy vậy đến khi hết bệnh thì tôi vẫn chứng nào tật nấy, không ở sạch được.



Tắm rửa lại, mặc quần áo, chải đầu xong ra ngoài thì bác Mẫn đã về lúc nào. Khi tôi đi ngang qua sàn nước để vào bàn ăn, mẹ tôi liếc nhìn thoáng qua không nói gì. Chắc mẹ yên tâm là khi đã bắt tôi tắm lại lần nữa, thì cũng gột thêm được một số đất cát còn bám trên người tôi, nhất là thấy tôi đã chải đầu đàng hoàng. Trời đã bắt đầu xẩm tối. Theo lời mẹ, tôi chạy vào phòng khách cũng là phòng làm việc của bố tôi mời bố ra xơi cơm. Cô An thì ăn kiêng theo lối riêng của cô nên ít khi ngồi chung bàn. Anh Huy hãy còn đi chơi ở nhà bạn chưa về. Ngày Chủ Nhật anh hay về trễ, ăn cơm sau, hoặc ăn ở đâu rồi đã thành thói quen, bố mẹ tôi nói mãi không được cũng thôi. Chị Trang thì tôi không cần phải mời. Nếu không thấy chị đang phụ mẹ dọn cơm thì tôi chỉ cần hô to một tiếng: “Chị Trang! Ra ăn cơm.” Chị đang ở bất cứ đâu trong nhà tất phải nghe thấy. Chỉ khi nào biết là chị không có nhà, đang ở đâu đó bên hàng xóm nói chuyện với bạn của chị, thì tôi phải chạy đi tìm. Những lần như thế chị khó tránh khỏi mấy lời la mắng của mẹ, vì cái tội đến giờ cơm mà không nhớ về nhà. Chuyện trẻ con ham chơi như chị em tôi hay mấy đứa bạn hàng xóm, bị ông bà, cha mẹ hay anh chị rầy la đánh mắng là chuyện thường như cơm bữa. Đứa nào không bị đòn hay mắng chửi mới là chuyện lạ. Cả thày giáo ở trường cũng đã bảo: “Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi” mà.


Hôm sau đi học về tôi đã thấy cái hom dây thiên lý được trồng xuống chỗ hố đất mẹ sai tôi đào hôm qua. Hai phần ba chiều dài của hai nhánh dây được vùi lấp dưới đất, chỉ một phần chừng bằng ba gang tay của tôi nằm ở trên mặt đất. Khoảng đất chung quanh hom hãy còn ẩm nước chắc mẹ tôi hay cô An vừa tưới cho nó mới đây. Đang còn chú ý nhìn thì chị Trang cũng vừa từ cửa sau đi học về. Chị chẳng màng chú ý đến cái dây thiên lý vừa trồng, đi nhanh vào trong nhà. Tôi biết chị mỗi lần đi học hay đi đâu chừng vài tiếng đồng hồ về là chỉ thích vào ngay trong phòng nằm trên giường hay trên cái võng treo vắt ngang hai trụ cột gỗ ở hai bên tường đối diện. Có khi chị lấy sách vở hay truyện thiếu nhi ra xem, có khi chỉ nằm không. Những lúc ấy thì đừng hỏi gì đến chị nếu không muốn nghe những lời nói gấm gẳng khó chịu như: “Đang mệt đứ đừ đây, chút nữa đã.”  Đấy là vì cơ thể chị không được khỏe như những bạn đồng lứa khác. Mẹ và cô An thường nói hồi có bầu chị, mẹ hay bị đau ốm luôn nên có thể đã ảnh hưởng đến sức khỏe của chị. Năm đầu sau khi ra đời, chị cũng oặt oẹo khó nuôi, hay khóc. Có lần không biết vì lý do gì chị khóc ba ngày ba đêm liên tiếp, không biết mẹ và cô có nói quá không. Khi chị lớn dần lên thì tạng người vẫn dong dỏng, gầy gầy. Một lúc sau, khi thấy chị đi lấy nước lọc uống tôi vẫy tay gọi chị:


- Chị Trang, ra xem cây thiên lý mẹ trồng kìa.


- Biết rồi. - Chị trả lời sau khi nuốt xong ngụm nước.


- Ủa, chị xem hồi nào vậy?


- Chưa xem nhưng có gì mà xem. Nó đã ra cái gì đâu.


Tôi hơi chưng hửng nhưng thấy chị nói đúng. Có lẽ chị đã trông thấy cái hom thiên lý hôm qua, lúc chưa trồng xuống đất, nên chẳng cần để ý đến nó nữa.


- Chị thấy cây thiên lý có hoa có lá bao giờ chưa vậy? - Tôi lại hỏi.


- Chưa, nhưng có lần có đứa bạn chị đem vào lớp một chùm hoa thiên lý thơm lắm, có cả lá nữa.


- Hoa thiên lý nó ra làm sao vậy chị? Có to không? Màu gì? Lá nó hình gì?


Thấy tôi tò mò hỏi nhiều quá, chị gắt:


- Làm gì mà hỏi nhắng lên thế. Nó màu vàng vàng, không to, như cái ngôi sao vậy.


- Nó thơm ra làm sao vậy chị? Có giống mùi thơm hoa ngọc lan không?


Nhà tôi có cây hoa ngọc lan mẹ mua giống ở chợ về trồng ở sân đằng trước từ mấy năm nay. Mỗi lần ra hoa, những búp trắng ngà như ngọn bút lông viết chữ Tàu còn mới, nở he hé những cánh hoa, theo gió tỏa hương thơm ngát sân nhà. Mẹ và cô An hay hái vào cái bát nhỏ đem để trong các phòng cho “thơm cửa thơm nhà”, mẹ nói vậy.


- Ờ, nó thơm.. nhưng không giống hoa ngọc lan. Mỗi cái một khác. Nhưng ngửi có một lần, chị không nhớ rõ.


- Còn lá nó giống lá gì vậy?


- Chị không để ý, hình như giống lá cây hoa giấy. Thôi đừng hỏi nữa, đợi khi nào cái cây nhà mình nó ra lá ra hoa thì khắc biết.


Biết chị đã chán không muốn nói chuyện về hoa thiên lý nữa, tôi rủ chị vào phòng thăm em Duy. Vào phòng không thấy em trên giường, hai chị em tôi ra phòng khách thì thấy cô An đang đứng bên cạnh cái nôi bằng sắt sơn màu trắng ngà đang có em Duy nằm trong đó, đầu cô gật gù, miệng vừa tặc lưỡi vừa nói: “Tặc âuuu.., tặc âuuu…” Trước đây cái nôi này vẫn thường để ở trong phòng bố mẹ tôi nhưng từ khi em Duy được ba tháng thì nó được kê ra phòng khách, sát cạnh tường ngăn với phòng của bố mẹ. Bố bảo: “Để cho có không khí thoáng mát tốt cho em bé hơn.” Ban ngày, cái nôi là nơi nằm ngủ và nằm chơi đập chân đập tay, tập lẫy của em. Đến ban đêm mẹ mới đưa em vào giường ngủ chung với mẹ. Từ ngày có em, bố tôi cũng không ngủ trong phòng của bố mẹ nữa mà bố kê cái ghế vải, gấp ra gấp vào được, để ở phòng khách, giăng màn lên bốn cái cọc gỗ cắm ở bốn góc làm giường ngủ. Ban ngày thì tháo màn ra, xếp ghế lại, mang cất trong phòng. Hai chị em tôi bước đến sát nôi nhìn vào. Chúng tôi không lên tiếng chào cô An vì đã quá quen thuộc. Biết chúng tôi đến, cô lên tiếng, mắt vẫn nhìn xuống nôi: “Hai cháu đi học về đấy hả. Trông em này, dễ thương chưa?” Em Duy đang nằm ngửa trong nôi trên miếng nệm mút mỏng bọc bằng lớp vải hoa và một cái chăn bông mềm mại. Hai bên em có hai cái gối dẹp và dài may thành hình con thỏ, chèn ra sát hai bên cạnh nôi. Đầu em vẫn đội cái nón len, gối lên chiếc gối nhỏ màu xanh da trời có viền đăng ten. Quanh người em quấn cái tã trắng vuông xếp chéo, che lên đến ngực, bọc hết ba vạt áo nhỏ nhắn bằng vải nội hoá mềm và nhẹ vào bên trong. Trông em thật gọn gàng xinh xắn. Em đang khua hai bàn tay qua lại, được bọc trong hai cái bao vải trắng như hai nắm bốc tí hon, và chân thì đạp lên đạp xuống, làm một bên bí tất đang tuột ra phân nửa. Đôi mắt em mở to tròn, đen lay láy như hai hột nhãn, nhìn lên ba khuôn mặt to lớn nhưng thân quen. Da mặt em trắng hồng mịn màng, làn môi bé bé, đo đỏ đang mấp ma mấp máy như muốn diễn tả một điều gì.


- Cô cho em nó lẫy đi cô. - Chị Trang vừa cầm tay em Duy lắc nhẹ, vừa nói.


- Em nó lẫy một lúc rồi, bây giờ đang nằm nghỉ đấy. Tí nữa cô cho em lẫy lại cho mà xem. Trang có muốn bế em không? À mà các cháu đi học về đã rửa tay chưa?


Chị Trang nghe cô nói rụt tay về không trả lời. Tôi cũng lờ luôn không nói gì. Cô An là người thứ nhì sau mẹ tôi hay để ý đến chuyện vệ sinh sạch sẽ trong nhà và cái tật ở bẩn của chị em tôi. Chính ra cô là người quan tâm đến việc này hơn cả mẹ tôi nữa, nhưng cô chỉ âm thầm lau chùi dọn dẹp kệ bàn đồ đạc, quét dọn vườn tược những khi cô thấy khỏe, và nhẹ nhàng nhắc nhở anh chị em tôi mỗi khi có dịp. Riêng về em Duy, cô rất cưng em, giữ gìn vệ sinh, săn sóc, bế ẵm em cả ngày. Bố mẹ tôi sinh tôi xong đến chín năm sau mới sinh em Duy, lại thấy cô có ý không lập gia đình nên để cô nhận làm mẹ nuôi của em. Có cô chăm lo cho em, mẹ tôi không phải bận tâm nhiều và mẹ có thời giờ lo việc chợ búa nấu nướng hơn. Trong việc săn sóc em Duy, cô đặc biệt quan tâm đến vấn đề sạch sẽ. Hai chị em tôi và ngay cả anh Huy hoặc chị Hạnh khi chị ghé nhà thăm, cũng phải chứng minh cho cô thấy là tay chân quần áo đã sạch trước khi muốn vuốt đầu, nựng má hay bế ẵm em. Nếu không sạch thì chỉ được đứng mà nhìn thôi. Nhiều lúc cô lo lắng cho em quá nhiệt tình, chị Hạnh lúc vắng cô nói với mẹ: “Cô An cô ấy bảo hoàng hơn vua. Không bù với thằng Cương nhà con, ông bà nội nó với cả tụi con có cần phải giữ gìn sạch sẽ quá như thế đâu mà nó vẫn ăn no chóng lớn chứ có làm sao?” Anh Huy đứng gần đó cũng thêm vào: “Sạch quá thì sau này nó không quen được bệnh. Phải để cho nó ở bẩn một tí cho nó quen đi.” Mẹ nghe hai chị em phê bình thì chỉ cười, nhìn chị Hạnh bảo: “Cứ để mặc bà ấy cho bà ấy có công ăn việc làm. Nhờ có bà ấy mà mẹ đỡ đưọc nhiều việc lắm đấy. À, mà hôm nào nghỉ, bảo anh ấy chở cả hai mẹ con về đây cho cả nhà xem cháu Cương nó lớn thế nào rồi.”


Cương là con trai đầu lòng của chị Hạnh và anh Hướng chồng chị. Chị lấy chồng rất sớm,  từ năm mười bảy tuổi, khi đang học lớp đệ Nhị, và sang năm sau chị sinh cháu Cương. Chị có bầu Cương năm trước thì năm sau mẹ có bầu em Duy. Những người thân quen thường nói là chị Hạnh sinh con lấy đà cho mẹ sinh em. Mọi người trước đó đều nghĩ là bố mẹ tôi sẽ không sinh đẻ gì nữa và tôi là út rồi. Chuyện mẹ có bầu và sinh em Duy đã là đề tài bàn thảo sôi nổi trong họ hàng và cả mấy bà hàng xóm.


Chị Trang và tôi còn đang đứng nhìn em Duy trong nôi thì nghe tiếng mẹ gọi: “ Trang, Huấn xuống phụ mẹ dọn cơm.” Cả hai chị em tôi đều không lên tiếng. Chúng tôi đang chăm chú xem em Duy tập lẫy, chờ xem em có tự lẫy được một mình không. Gần một tuần nay em đã bắt đầu tập lẫy nhưng chưa quen. Nếu để một cái gối kê ghé nghiêng một bên người thì em cố tự lẫy được nhưng phải để ý đỡ cho em khỏi vập đầu. Nếu để trống không hai bên thì em vẫn chưa thể tự lăn úp người xuống. Khi thấy em đưa được một chân gác qua bên chân kia, người hơi nghiêng qua như muốn lật, tôi reo lên:


- A!, em bé lẫy kìa.


- Làm gì đã lẫy, nó đang chuẩn bị thôi. - Chị Trang sửa sai tôi.


- Kìa, nó lẫy kìa


- Mới nằm nghiêng thôi, chưa lẫy.


- Ơ, sao nó lại nằm ngửa rồi.


- Ừ, thì còn vướng vai với tay ở dưới, nó chưa đủ sức lẫy một mình. - Chị Trang nói như thể chị đã từng phải trông con nít ở tuổi đang tập lẫy.


Tiếng mẹ tôi lại vọng lên: “Trang, Huấn, xuống phụ mẹ dọn cơm, bố sắp về rồi đấy.” Chị Trang bỏ đi xuống dưới nhà bếp. Tôi không cần đi theo vì hiểu là mẹ tuy gọi cả hai chị em nhưng chỉ cần một người xuống phụ mẹ là được rồi. Mẹ gọi trừ hao vậy, không bắt được đứa này thì có đứa kia chứ phụ dọn cơm thì cần gì đến hai đứa. Còn mình tôi và em Duy. Cô An thì đang loay hoay nhặt nhạnh mấy cái quần áo tã lót của em thay ra còn để dưới nền nhà. Em Duy lại đang xoay người muốn lẫy. Khi em đang cố gắng dùng sức để đưa một bên vai ở trên, vượt qua sức cản của cánh tay và bả vai đang bị đè bên dưới, mãi mà chưa được, thấy cô An vừa quay lưng lại, tôi lấy tay đẩy nhẹ vào lưng giúp em lật úp người xuống. Cả thân hình bé nhỏ nằm ập xấp trên tấm nệm, lệch vào một bên nôi, đầu úp xuống mép gối. Đồng thời một tiếng khóc “óa óa óa” như đau khổ lắm vang lên. Tôi hoảng quá, chưa kịp đỡ em dậy thì cô An đã quay nhanh lại, vội vàng bế em lên ôm vào lòng, nhịp nhịp cánh tay vỗ về: “Ôi ôi! tội nghiệp con tôi. Không sao, tại cái gối. Đây Ma đaaánh cái gối này! cái gối hưưư quá. Đaaánh cái gối này! Cái gối hưưư quá. Um, um, cái gối làm đau con haaả, không sao đâu, đây Ma đền, um um.” Không biết có phải vì nghe được những lời dỗ dành ngọt ngào quá sức của cô hay vì cảm được hơi người quen ẵm bế nựng nịu, em Duy nín khóc nhanh chóng. Tôi không hiểu tại sao Duy lại khóc khi tôi giúp cho em lẫy như vậy. Tôi tưởng tôi sẽ được xem em ngẩng đầu lên, đập chân đập tay, hay có thể trườn bò, như tôi vẫn thường thấy mấy đứa bé nhà hàng xóm làm, khi tôi sang nhà bạn chơi. Mấy đứa nhỏ đó vừa đặt nằm xuống đất là đã tự xoay người lật úp nhanh như chớp rồi, đâu cần có ai giúp gì đâu. Cô An nghi ngờ hỏi:


- Cháu có lật em không mà nó khóc quá vậy?


- Cháu chỉ giúp đẩy lưng nó thôi, cho nó dễ lẫy. - Biết khó che dấu tội của mình tôi đành thú nhận.


- Em nó chưa lẫy một mình được đâu. Phải từ từ.


- Cháu nghe cô nói lúc nãy là em nó lẫy được rồi mà.


- Ừ, nó lẫy được nhưng phải đỡ cho nó lật từ từ, dùng tay nâng đầu cho nó có sức ngẩng lên. Nó còn đang tập, chưa lẫy nhanh như những đứa khác được.


Bây giờ thì tôi hiểu tại sao em Duy khóc. Tôi cứ tưởng nhìn em đạp chân đạp tay, xoay người qua xoay người lại trông rất mạnh khỏe như thế thì giúp cho một cái đẩy lưng đâu có hại gì. Hóa ra trông con nít nhỏ cũng rắc rối thật.


Tôi nói nhanh: “Cháu đâu có biết”, rồi quay người đi vội ngay xuống bàn ăn. Tôi còn đang lo không biết cô có phát hiện ra là hai bàn tay của tôi đâu đã được rửa ráy gì từ lúc đi học về đến giờ.  Vừa đi tôi vừa lẩm bẩm: “Sao bảo ‘ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò, chín tháng lò dò biết đi’? Em Duy đã gần bốn tháng rồi, phải biết lẫy lâu rồi mới đúng chứ. Người lớn nói sai rồi.”


Thấm thoát một tháng trôi qua, cái hom dây thiên lý đã ra mầm, mọc lên ba nhánh, quấn vào cây sào gỗ vươn đến ngang vai tôi. Mấy cái lá non be bé xinh xắn màu xanh lá mạ hình trái tim, nằm dọc theo nhánh cây thỉnh thoảng lại rung nhẹ theo làn gió thoảng qua. Chả biết cây thiên lý mai mốt lớn lên sẽ cho ra cái gì mà ngày nào mẹ cũng nhắc tôi hay chị Trang phải cẩn thận, đừng chơi đùa nghịch ngợm gì gần đó, sợ vô ý đá bóng trúng, hay chạy đuổi nhau lại ngã lăn rầm vào mấy nhánh cây yêu quý của mẹ. Đến việc tưới nước cho vườn cây vào mỗi buổi chiều, vốn là việc của hai chị em tôi, mẹ cũng bảo chúng tôi trừ cây hoa thiên lý của mẹ ra, chỉ tưới những cây khác như thường lệ. Mẹ nói: “Để cây thiên lý mẹ tưới. Các con giội mạnh quá nó chết. Tưới nhiều sũng nước cũng không được.” Thấy mẹ săn sóc mấy nhánh cây cưng của mẹ quá, một hôm tôi tò mò hỏi:


- Mẹ làm gì mà phải cẩn thận lo cho nó kỹ quá vậy?


Mẹ tôi không nhìn tôi, tay vẫn đang cầm cái bay nhỏ vun đất ở chung quanh vào gốc cây. Hình như mẹ đang suy nghĩ điều gì. Tôi ngồi xuống cạnh mẹ, lại hỏi tiếp:


- Thế cái cây này có ích gì không mẹ. Chắc chỉ để che mát hả?


Mẹ tôi ngừng tay, nhìn tôi nhẹ nhàng bảo:


- Ừ, để lấy bóng mát, nhưng cũng còn để lấy hương thơm và để ăn nữa.


Tôi ngạc nhiên, tưởng mẹ nói đùa, hỏi lại:


- Ơ, cây thiên lý ăn được sao mẹ? Ăn có ngon không? Mà sao bố nói nó không có quả.


Mẹ tôi mỉm cười, thông cảm cho sự khờ khạo của tôi, mẹ kéo tôi đứng lên rồi nói:


- Cây thiên lý không có quả nhưng có hoa rất thơm. Hoa, lá và những ngọn non của nó nấu canh hay xào ăn ngon lắm. Khi nào cây mọc to, ra nhiều lá và hoa, mẹ nấu một nồi canh hay xào một chảo cho cả nhà ăn. Lúc đó con sẽ biết.


Mẹ vừa dứt lời, tôi sốt ruột, không nín được sự tò mò:


- Thế có ngon như canh hay món xào hoa mướp và đọt bầu không mẹ?


Mẹ tôi quay ánh mắt về hướng giàn bầu mướp, lúc đó mấy nhánh cây này đã mọc cao quá mặt giàn và đang uốn nằm xuống những thanh gỗ đan thành hình ô vuông giống như ở cái giàn thiên lý. Mẹ không do dự, trả lời:


- Thứ nào cũng ngon, nhưng hoa thiên lý ngon hơn. Không có cây hay rau nào nấu canh hay làm đồ xào thơm ngon hơn hoa thiên lý đâu. Thôi con đã học bài chưa, lấy sách vở ra học bài làm bài đi. Nhớ ở nhà đừng chạy chơi đâu xa. Khi nào mẹ cần nhờ cái gì còn gọi được.


 Mẹ tôi nói rồi đi thẳng xuống bếp. Chà, nghe mẹ khen canh hoa thiên lý mà tôi phát thèm. Mẹ lại nói về cái cây này với giọng thật thiết tha và cảm động nữa. Chẳng biết cái cây này đặc biệt thế nào mà mẹ tôi quý hoá nó đến thế. Nhưng cứ như mẹ nói thì canh hoa thiên lý phải ngon lắm. Mẹ nói ngon hơn canh nấu với nụ hoa mướp và đọt bầu mà. Tôi chưa được ăn canh hoa thiên lý, nhưng món canh bằng nụ hoa mướp và đọt bầu, hái từ ngoài giàn lúc cây đang đâm chồi nẩy lộc xum xuê tươi tốt, nấu với tôm khô hay thịt lợn băm, thì tôi đã được thưởng thức rồi. Nhìn bát canh đầy cọng lá non xanh mướt và mấy cái đọt còn dính sợi râu xoắn tít, điểm những nụ và hoa mướp mới hé nở, lộ màu vàng tươi, trong làn nước óng ánh trong veo là đã thấy muốn ăn. Nếu được ăn vào những buổi trưa nắng, sau khi đi học về, đang đói bụng thì lại càng tuyệt. Thỉnh thoảng đổi món, mẹ xào nụ hoa mướp với lòng gà, chưa cần nhìn, chỉ ngửi mùi không cũng thấy cồn cào trong bụng. Gắp cái chùm hoa còn dính cả nụ, đẫm nước sốt đậm đà đang bốc hơi nóng hổi, kèm thêm miếng gan gà chín vàng, bỏ vào miệng nhai sừn sựt nghe ngọt bùi và thơm ngon làm sao. Vậy mà theo mẹ, nấu canh hay làm món xào bằng hoa thiên lý còn ngon hơn nữa. Tôi phải mong cho cái cây của mẹ mau trổ lá ra hoa để có dịp thưởng thức món ăn độc đáo này. Thật ra tôi là thằng con trai dễ tính, ăn gì cũng được, không hay kén cá chọn canh, là nói theo nghĩa đen, và chắc cũng đúng theo nghĩa bóng nữa. Để xem với cái khả năng “dở ẹc” về “gu” thưởng thức các món ăn ngon của tôi, như anh Huy thường nhận xét, thì không biết tôi có phân biệt nổi giữa canh hoa thiên lý với canh hoa mướp đọt bầu, món nào thơm ngon hơn món nào không?


Tôi còn đang lan man nghĩ ngợi về chuyện ăn uống thì có tiếng người gọi ở ngoài cổng. Hình như tiếng anh Hướng, là anh rể tôi, chồng chị Hạnh. Chợt nhớ hôm nay Thứ Bảy, chắc anh chị đến chơi, tôi vội theo đường chái nhà chạy ra đằng trước mở cổng. Quả đúng là anh Hướng, chị Hạnh và cả cháu Cương nữa. Anh đang trả tiền người đạp xích- lô, chiếc xe gắn máy “Puch” của anh dựng ở cạnh cổng, còn chị Hạnh thì đang đứng một bên bế bé Cương đã hơn một tuổi, con đầu lòng của anh chị. Tôi reo to lên, đồng thời cũng để mọi người trong nhà biết:


- A, Anh Hướng, chị Hạnh. Em chào anh chị. Mẹ ơi, có anh Hướng, chị Hạnh đến chơi. Có cả cháu Cương nữa.


Anh Hướng người cao nhưng không to, anh là học trò của bố tôi từ ngày còn ở ngoài Bắc. Anh hơn chị đến bảy tuổi và đã gia nhập quân đội quốc gia từ trước khi di cư. Vào trong Nam, anh là sĩ quan trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa và vì nhà bố mẹ anh ở gần nhà bố mẹ tôi, anh đã có dịp mỗi khi về phép đến thăm hỏi thường xuyên thày dạy cũ. Bố mẹ tôi thấy anh là người đàng hoàng, gia đình nền nếp nên cũng thương mến. Có lẽ cảm động cái tình thày trò quyến luyến của anh, và chắc cũng có cả tình cảm riêng của anh với chị Hạnh trong đó nữa, nên bố mẹ đã quyết định gả chị cho anh sau khi gia đình anh ngỏ lời cầu hôn. Phần chị Hạnh là con gái theo truyền thống con nhà gia giáo, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, hơn nữa, chắc dưới mắt chị, anh Hướng là người “được” nhất trong số những anh học trò của bố, nên đã chấp nhận lấy anh làm chồng. Đám cưới đã diễn ra ngay tại nhà bố mẹ tôi với bàn tiệc bày từ trong phòng khách ra ngoài sân, vào lúc chị mới mười bảy tuổi, lên xe hoa mà nước mắt lã chã đầm đìa, lấy chồng sao giống như bị đi đày. Còn nhớ hôm ấy, tôi hãy còn ngây thơ, mặc quần áo đẹp mà đi nhập bọn cùng đám trẻ con hàng xóm, hát ghẹo anh chị ngay trong lúc đón dâu: “Cô dâu chú rể, làm bể bình bông, đổ thừa con nít, bị đòn tét đít.” Vì cái tội hát bậy đó, tôi đã suýt bị mẹ cho ăn đòn.


Anh Hướng bước đến gần cổng, tay xách chiếc túi vải đựng quần áo em bé, bình sữa và những đồ lặt vặt. Hôm nay anh mặc quần áo “xi vin” chứ không đóng bộ quân phục oai phong như những lần trước đây. Anh vừa cười vừa xoa đầu tôi hỏi:


- Bố mẹ có nhà không em? Anh chị đem cháu Cương về thăm ông bà ngoại và các cô cậu đây.


Tôi nhanh nhẹn đưa tay cầm cái túi vải cho anh dắt xe máy vào sân rồi trả lời:


- Bố đi đâu rồi ấy. Có mẹ, cô An với tụi em ở nhà thôi.


Chị Hạnh bế Cương đến bên tôi, hạ thấp cháu xuống một chút cho gần ngang tầm mắt tôi rồi chị vui vẻ nói:


- Này, con chào cậu Huấn đi này. Ạ cậu đi, aaạạ.


Chưa dứt tiếng “ạ” kéo dài, chị khẽ nghiêng người bé Cương xuống giống như đứa bé đã biết phép lịch sự, cúi đầu chào người lớn khi mới gặp, dù cái thằng “người lớn” là tôi đây cũng chẳng lớn hơn cháu mình là bao. Trong lúc Cương, một đứa bé mới hơn một tuổi, được mẹ huấn luyện cho bài học vỡ lòng về sự lễ phép theo đúng như sách vở giáo khoa “dạy con từ thuở còn thơ”, mở miệng “ạ” một tiếng nhỏ, thì cậu nó chỉ biết đứng đực mặt ra không nói được một câu, cũng không có cử chỉ vồn vã nào để đáp lại cháu mình. Hôm nay Cương được mẹ mặc cho bộ quần áo “cao bồi” xanh lơ, đầu đội cái mũ vải mỏng màu vàng, chân đi giày nhựa trắng trông thật gọn gàng và đẹp mắt. Vài tháng trước đây, khi Cương đã bắt đầu tập tễnh biết đi và thỉnh thoảng nói được mấy tiếng “măm”, “mạ”, “ba”, “bà”… thì mỗi lần anh chị Hướng đưa cháu đến chơi, mọi người đều quây quần tại phòng khách dạy cho cháu tập nói thêm những tiếng khác. Không biết tại Cương là con trai, chậm biết nói hơn con gái, như mẹ tôi và cô An thường bảo, hay tại cháu mắc cỡ không chịu mở miệng nói nhiều mà sau bao lần dụ dỗ, hứa thưởng bánh kẹo, đồ chơi, Cương chỉ nói thêm những tiếng như” ông”, “bé”, “bố”, “cô”. Riêng tiếng “cậu” thì có mỏi miệng dạy bao nhiêu lần, Cương cũng không chịu học. Anh Hướng lúc đó đang ngồi hàn huyên vui vẻ với bố tôi, quay sang pha trò: “Tiếng “cậu” chắc khó nói chứ tiếng “chú” nó nói được đấy. Ở nhà ông bà nội, nó nhìn thấy chú Trình nó gọi “chú, chú” rõ lắm. Thôi cậu Huy với cậu Huấn để nó gọi bằng chú hết đi cho tiện.”


Tôi còn đang ngượng ngập, không biết mở miệng khen thằng cháu một tiếng, thì mẹ tôi đã xuất hiện ở cửa trước. Tôi lảng ra đi đóng và gài cánh cổng lại trong lúc mẹ đưa tay bế cháu ngoại cưng từ tay chị Hạnh. Mẹ hôn lấy hôn để vào hai bên má phính của cháu, giả giọng trẻ con:


- Úi giào ui, cháu cưng của bà đây giồi. Cho bà mi một cái nào, úm à, úm à, úm…


Sau mỗi tiếng “úm à” lại có một tiếng “choét” phát ra do động tác hôn má nồng nhiệt của bà ngoại dành cho cháu. Anh Hướng vừa dựng xe máy xong bước lại tươi cười:


- Con chào mẹ. Hôm nay con được nghỉ phép nên đưa nhà con với cháu về thăm thầy mẹ với các em. Thầy mẹ vẫn được khỏe chứ ạ? Thầy có nhà không ạ?


- Cám ơn anh, ông nhà tôi và tôi vẫn bình thường. Ông ấy đi lên nhà xuất bản rồi, chắc nói chuyện về quyển sách giáo khoa sắp in. Anh Hướng lúc này trông hơi phát tướng ra đấy nhỉ.


Mẹ tôi vẫn thường gọi anh Hướng, con rể mẹ, là anh, xưng tôi theo kiểu mấy bà người Bắc gọi con rể lớn tuổi, không thua tuổi mình bao nhiêu. Còn anh Hướng thì gọi bố mẹ tôi là thầy mẹ, xưng con, chỉ khác trước khi anh lấy chị Hạnh chút xíu, khi đó, anh cũng xưng con và gọi bố mẹ là thầy cô.   


- Mẹ ơi, từ cả hai tuần nay anh ấy được biệt phái về thành phố, không phải đi xa nên ăn uống đầy đủ mới có da có thịt thế đấy. Bà nội cháu Cương cứ đem đồ ăn sang cho mãi. - Chị Hạnh vừa cười vừa đỡ lời cho chồng.


- Ừ, thế thì tốt quá. À thế ông bà nội cháu vẫn khoẻ cả chứ? - Mẹ tôi quay sang anh Hướng hỏi tiếp.


- Cám ơn mẹ, thầy me con vẫn được khỏe. Thầy me con có nhắn lời vấn an sức khỏe của thầy mẹ. Me con có dặn con đưa cái hộp này biếu mẹ, quà cho em Duy. Em vẫn ngoan chứ mẹ? - Anh Hướng đưa cho mẹ tôi cái hộp mỏng có lớp giấy bóng kính ở mặt trên mà anh đã cầm sẵn ở tay từ lúc dựng xe xong. Hình như có bộ quần áo trẻ con xếp ở bên trong.


- Ồ, quý hóa quá. Anh cho tôi gửi lời cám ơn ông bà nội cháu nhé. Bà cứ cho quà mãi. Em nó cũng ăn ngủ đều anh ạ. Đã lẫy giỏi lắm rồi, còn trườn được nữa đấy. Ờ thôi, tất cả vào trong nhà đi. Hạnh, con lấy hai ly nước cam mẹ vắt sẵn ở trên bàn nước, bỏ tí đá vào hai vợ chồng uống cho đỡ khát, cho cháu Cương nó uống nữa. Huấn đâu, vào đây chơi với cháu này. Con lấy đồ chơi ra hai cậu cháu chơi đi.


Mẹ tôi nói một hơi rồi đặt bé Cương đứng xuống giữa phòng khách, trên nền gạch bông. Trong lúc tôi vào phòng trong tìm mấy thứ đồ chơi, cô An đã biết có anh Hướng chị Hạnh và cháu Cương đến, nên thay bộ quần áo mới cho em Duy rồi bồng em ra phòng khách nói chuyện. Khi tôi chọn xong được mấy thứ đồ chơi bằng nhựa mềm, định chạy ra thì thấy chị Trang đứng ngấp nghé ở ngưỡng cửa nhìn vào phòng khách. Tôi nắm tay chị ra theo nhưng chị rụt lại không chịu. Biết ý chị mắc cỡ, không thích chào hỏi, dù là với anh Hướng, anh rể và cũng không phải là người xa lạ gì, tôi không níu kéo nữa. Trước sau gì thì lát nữa đây chị cũng sẽ được bế ẵm và chơi với cháu Cương khi tôi dắt nó vào cho chị xem. Tôi đem đồ chơi ra phòng khách thì thấy mẹ, cô An, anh Hướng và chị Hạnh đang ngồi quanh trên ghế sa-lông, còn cháu Cương thì mặt có vẻ ngơ ngác, e lệ, bị chị Hạnh đẩy ra đứng trước mặt em Duy. Cô An bế nhấp nhấp em Duy trên tay, cô cầm cánh tay nhỏ bé của Duy đưa về phía Cương nói đùa: “Cháu Cương đến chơi với con này, thấy cháu giỏi chưa, cháu có quần áo đẹp chưa kìa, hai cậu cháu nắm tay nhau chạy đi chơi đi này.” Chị Hạnh nắm một bàn tay con mình đặt vào bàn tay của em Duy, giả giọng trẻ con, nói thay cho Cương: “Cậu Duy mau ăn chóng lớn đi chơi với cháu nhé. Mai mốt hai cậu cháu đi sở thú chơi xích đu, xem voi xem hổ nhé.” Mọi người cười đùa vui vẻ, tạo chuyện cho hai cậu cháu, nhưng cậu lại nhỏ tuổi hơn cháu, làm như cả hai đứa bé đã biết nói rành rọt, và vì mắc cỡ nên không chịu phát ngôn thành lời. Thấy tôi ra, mẹ tôi ngưng cười, quay nhìn anh Hướng, mẹ nói:


- Hôm nay anh Hướng ở lại ăn cơm tối nhé. Để tôi làm cơm sớm, ăn xong rồi hãy đưa mẹ con nó về. Anh ngồi chơi nói chuyện với cô An và các em nhé.


Mẹ nói xong đứng lên ngay không đợi anh Hướng và chị Hạnh trả lời. Anh Hướng nói với theo trong lúc mẹ đi vào trong nhà:


- Vâng, cám ơn mẹ. Mẹ cho chúng con ăn gì cũng được, mẹ đừng bày vẽ phải mệt.


Mẹ tôi nói nhanh trước khi đi khuất vào nhà trong:


- Không có gì đâu, anh đừng lo, cũng ăn như thường ngày thôi.


Anh Hướng nói thật lòng nhưng anh cũng biết mẹ tôi sẽ không làm thức ăn như thường ngày theo lời mẹ nói. Mỗi lần anh chị đến chơi, nhất là vào dịp cuối tuần thế này, thể nào mẹ cũng đi chợ mua thêm thức ăn về làm những món đặc biệt để đãi anh chị và cũng là để cả nhà cùng vui vẻ, vì lâu lâu mới có dịp mọi người đoàn tụ. Mẹ vào rồi, câu chuyện xoay quanh hai đứa bé một lúc cũng nhạt. Cương đã bắt đầu tỏ vẻ khó chịu. Hiểu ý con, chị Hạnh đẩy Cương về phía tôi, tay chỉ, miệng nói: “Kìa, cậu Huấn có đồ chơi gì hay quá kìa, con ếch biết nhảy kìa, con ra chơi với cậu đi.” Thằng bé được giải thoát khỏi cái vòng o ép của người lớn vội bước ngay tới cậu nó. Nó đã quen với tôi từ những lần trước nên không e ngại gì. Tôi ngồi sẵn dưới nền gạch bông giữa phòng, mấy thứ đồ chơi nằm rải rác bên cạnh. Cương bước đến gần rồi đứng lại ngây người, tròn xoe mắt nhìn con ếch bằng cao su màu xanh lá cây, có cái ống nhựa dài nối từ đuôi vào một quả bong bóng nhỏ màu đỏ đang nằm trong tay tôi. Tôi bóp quả bóng một cái, con ếch được căng hơi, búng người nhảy lên giống như ếch thật. Cương giật mình lùi lại có vẻ sợ hãi nhưng mắt vẫn hướng về con ếch. Tôi tiện tay bóp luôn ba bốn cái, con ếch nhảy liên tiếp ba bốn lần nhưng không vượt xa khỏi chu vi vài gang tay. Cương nhìn một lúc đã có vẻ quen không sợ nữa, chắc vì thấy tôi dám cầm con ếch trong tay mà không hề hấn gì. Nó mon men đến gần hơn rồi ngồi xuống. Biết thằng bé thích con ếch, món đồ chơi mà tôi mới mua ở tiệm bán đồ chơi hôm trước, trong lúc chạy ra chợ mua thêm mấy món gia vị cho mẹ làm cơm, tôi đưa quả bóng cho nó cầm. Cương rụt rè một chút rồi cũng cầm nhưng không không biết làm gì hơn. Tôi phải giục nó: “Bóp đi, bóp, bóp thế này này.” Tôi đưa bàn tay ra bóp không khí mấy cái làm thí dụ. Thằng bé vẫn không hiểu hay nó hiểu nhưng bóp nhẹ quá, không có tác dụng gì. Tôi nhích người lên, nắm lấy bàn tay đang cầm quả bóng của nó bóp khá mạnh một cái. Vô tình, trong lúc tôi với người sang phía Cương, một đầu gối chân tôi đã gạt con ếch xoay đầu hướng về thằng cháu, con ếch nhảy lên trúng ngay người thằng bé. Cương hoảng hốt kêu “á” lên một tiếng rồi vội vã đứng ngay dậy, lùi ra đằng sau. Nó đang định chạy về phía bố mẹ nó thì phát hiện con ếch hãy còn đang vướng vào gấu quần “din”, được gấp lên hai lần chắc vì ống quần dài hơn chân nó. Cương bật khóc oà và dậm chân sợ hãi. Chị Hạnh, cô An và em Duy lúc đó đã vào phòng trong, chỉ còn anh Hướng đang ngồi xem báo ở ghế sa-lông. Anh bước đến bế con lên dỗ dành và sau khi nghe tôi kể lại sự việc anh chỉ cười xòa, còn nói trêu con cưng của mình là sao con trai mà nhát thế. Phải một lúc sau Cương mới trở lại bình tĩnh và chịu ngồi xuống chơi thảy bóng sau khi tôi đã đem con ếch biết nhảy cất đi.


Hai cậu cháu chơi thêm vài thứ đồ chơi nữa thì tôi đã thấy chán. Chợt nhớ chị Trang chưa được hỏi han hay bế ẵm cháu, tôi nói với anh Hướng xong dắt Cương vào phòng trong rồi lần xuống sau nhà. Mẹ đang ở dưới bếp chuẩn bị đi chợ mua thêm đồ ăn. Chị Hạnh đứng bên cạnh, hình như cũng đang chờ để cùng đi với mẹ. Chị Trang đang ngồi nhặt thóc và sạn từ cái giá gạo để trên bàn dưới mái hiên. Nhìn thấy bé Cương đang lũn chũn từng bước nhỏ tiến đến, chị vội ngưng công việc, đứng dậy, giơ hai cánh tay, vui vẻ dẹt giọng ra: “A, Cương biết đi giỏi quá rồi. Trông dễ thương quá, ra đây cô bế cái nào.” Đối với chị Trang, Cương không quen như đối với tôi, nhưng nó cũng không lạ và e sợ. Nó chỉ không tỏ vẻ thích thú lắm khi được chị bế. Biết thằng cháu còn ngượng nghịu, chị Trang khen lấy khen để bộ quần áo đẹp của Cương, tuy là kiểu “cao bồi” nhưng lại có thêu hình con mèo và con thỏ với cây lá cành ở hai bên vạt áo. Nhưng coi bộ nó không để ý gì đến chuyện quần áo đẹp. Chị Trang nhìn quanh để tìm xem có cái gì làm trò cho cháu chơi không, thì chợt thấy mắt Cương cứ chăm chăm hướng về cái giá gạo, chị hiểu là đã có món đồ để hấp dẫn thằng bé. Chị ngồi xuống ghế, đặt Cương trong lòng rồi cho cả hai tay nó vào trong giá gạo chà chà. Cương thích chí xủi hai bàn tay ngập vào đống gạo trắng ngà rồi ngọ nguậy trong đó. Chắc cảm giác nhột nhột hay hay của những hạt gạo mát mẻ, cọ xát vào da bàn tay non nớt, làm Cương thích thú khiến nó bật cười lên khanh khách.


Tiếng cười bé thơ trong trẻo hồn nhiên làm mẹ và chị Hạnh đang nói chuyện gần đó cũng ngạc nhiên quay lại nhìn. Chị Hạnh reo lên: “Cô Trang tài quá, làm thằng Cương nó cười được, ở bên nhà chị nó chẳng cười bao giờ.” Mẹ hơi nghiêm mặt nói vọng lên: “Hai đứa cho cháu chơi cẩn thận không khéo lại đổ cả gạo ra đấy. Nhớ rửa tay cho nó nghe không.” Nói xong mẹ nháy mắt ra hiệu cho chị Hạnh rồi cả hai vội lẳng lặng đi nhanh ra cửa sau. Có lẽ mẹ lo bé Cương nhìn thấy chị rồi lại đeo, không dứt ra để đi chợ được như những lần trước. Cương coi bộ không để ý gì đến mẹ, nó vẫn đang khoái chí nghịch gạo trong giá. Được một lúc, chị Trang giữ yên hai tay nó nằm sâu giữa đống gạo rồi dùng tay còn lại vun gạo ở chung quanh lên thành cái đụn. Tôi ham vui cũng đến cạnh dùng tay vun gạo giống chị. Thấy Cương có vẻ chịu để yên tay không cựa quậy, nét mặt hí hửng tò mò nghĩ chắc đang có trò chơi gì hấp dẫn, chị Trang buông tay nó ra và dùng cả hai tay chị để cùng tôi vun gạo cho nhanh. Khi đụn gạo đã ở vị thế cao nhất, không thể vun cho cao hơn, hai chị em ngừng tay. Chị Trang reo lên, hai tay vỗ vào nhau: “A, hoan hô, bé Cương xây nhà cao ghê chưa, nhà ba tầng đó nghe, hoan hô.” Tôi cũng hào hứng vỗ tay hoan hô theo chị.


Chợt mắt tôi bắt gặp một vật gì đang nhúc nhích chuyển động nơi đỉnh cao của đụn gạo. Nhận ra đó là con sâu gạo màu trắng đục với cái đầu chấm đen, đang ủn mình bò nhanh giữa những hạt gạo như để tìm chỗ ẩn nấp, nhưng không chịu chui vào trong, mà lại cứ trườn mình ra ánh sáng. Sợ bé Cương sẽ hoảng mà hất tung hai tay lên làm văng gạo ra, tôi nhào tới để chộp con sâu vất đi. Chị Trang hình như cũng đã nhìn thấy con sâu đó, nhưng tính chị vốn sợ sâu nên không tìm cách bắt con sâu, mà chỉ đưa tay xuống để giữ hai cánh tay Cương. Chị và tôi hành động đã nhanh, tuy nhiên cũng không kịp, bé Cương đã nhìn thấy con sâu cùng lúc như hai chị em tôi vậy, vì giá gạo nằm ngay trước mặt nó, mắt nó lúc nào cũng chăm chăm nhìn vào đụn gạo, làm sao mà không thấy. Nó hoảng kinh kéo giựt hai tay về, miệng hét lên sợ hãi. Sức kéo tay về của Cương, tuy là của một thằng bé mới hơn một tuổi, nhưng do sợ hãi đã đủ mạnh để hai khuỷu tay và cườm tay của nó đánh văng cả giá gạo đổ nghiêng vào người. Một phần gạo đã tuôn vào lòng Cương trước khi tôi và chị Trang kịp giữ cái giá lại. Thằng bé càng kinh hãi khóc thét lên, vùng vằng chân tay, tưởng như cả bao nhiêu hạt gạo đang biến thành những con sâu bò vào người. Chị Trang và tôi cũng hoảng không kém. Phần lo thằng cháu khóc to quá, làm bố nó tưởng hai chị em tôi đã làm nó ngã, hay gây cho nó cái gì đau đớn lắm. Phần sợ mẹ về biết chuyện sẽ bị mắng, có khi bị đòn vì đã làm rơi nhiều gạo xuống dưới đất.


Mẹ tôi rất quý gạo. Mẹ thường bảo mỗi hạt gạo là một hạt ngọc, phải biết giữ gìn cẩn thận, tuy mẹ cũng chưa chỉ cho tôi xem hạt ngọc nó ra làm sao. Mẹ kể chuyện người ở quê mẹ chết đói năm Ất Dậu 1945 vì không có gạo hay bất cứ cái gì có thể bỏ vào miệng để ăn. Mỗi lần thấy chị em tôi ăn cơm xong làm vãi cơm ra bàn hay còn dính bát, mẹ bắt phải nhặt lên và ăn cho sạch. Mẹ nói: “Các con đừng phí cơm phải tội. Nhiều người khổ lắm, không có cơm mà ăn. Không biết quý hạt cơm hạt gạo, có ngày Trời phạt bắt chết đói đấy.” Hai chị em còn đang loay hoay dỗ cháu thì anh Hướng nghe tiếng con khóc đã chạy xuống, nét mặt có vẻ lo lắng, cô An cũng bế em Duy bước ra xem. Nghe qua sự tình, anh Hướng yên tâm bế con lên phòng khách, không dám giao cho hai chị em tôi nữa. Chắc anh phải ngán ngẩm không hiểu tại sao hai cô cậu trông cháu thế nào mà hết ếch nhảy vào chân rồi lại đến gạo đổ vào người thằng bé. Anh và cháu Cương lên nhà trên rồi, cô An bảo chị Trang hót hết số gạo bị rơi xuống đất bỏ vào một cái túi, để cho gà nuôi trong chuồng ăn dần. Cũng may, lượng gạo này không nhiều lắm, và nơi gạo rơi xuống là nền xi măng nên dễ hót lại. Sau đó, để giúp chị nhặt sạn và thóc cho nhanh, tôi lấy thêm một cái giá, san bớt số gạo mới đong bù vào phần gạo vừa bị rơi xuống đất, cùng ngồi làm việc với chị. Hai chị em vừa nhặt vừa tức, lại vừa buồn cười, nhất là khi tôi kể thêm cho chị nghe chuyện con ếch nhảy vào ống quần của Cương lúc còn ở phòng khách.


Công việc nhặt sạn và thóc vừa xong được một lúc thì mẹ và chị Hạnh đi chợ về. Không biết mẹ với chị mua những thứ gì mà chị xách đầy một giỏ đi chợ, ngoài ra, mẹ còn cầm trong tay một cái túi cũng căng phồng. Hai chị em tôi bảo nhau đem số hạt thóc nhặt ra từ giá gạo bỏ vào máng cho gà ăn rồi cùng lẳng lặng đi lên nhà trên. Chuyện làm đổ gạo chắc trước sau gì mẹ cũng biết nhưng để từ từ cho mẹ hay thì tốt hơn. Mẹ vừa đi chợ về còn mệt, nói ra bây giờ không khéo mẹ nóng lên lại mắng một trận và cho ăn đòn. Hy vọng cả cô An và anh Hướng cũng sẽ nghĩ như vậy và không mách cho mẹ biết ngay. Dù sao có thể đổ lỗi cho thằng cháu Cương, vì sơ ý cho nó chơi gạo nên nó làm đổ. Nhưng như thế cũng khó tránh bị la mắng vì cái tội dám coi thường hạt gạo. Thế nào mẹ cũng bảo: “Hạt gạo nuôi sống con người, phải đổ mồ hôi sôi nuớc mắt, mất bao nhiêu công sức mới có được hạt gạo mà thành miếng cơm bỏ vào miệng, chứ có phải đồ chơi đâu mà hai đứa đem gạo ra cho cháu nó chơi như thế. Thiếu gì đồ chơi sao không lấy cho nó chơi mà đi cho chơi gạo.”


Tôi không biết tại sao mẹ có thể rất dễ dãi về những đồ ăn thức uống và vật dụng khác nhưng riêng đối với gạo và cơm, mẹ rất kỹ lưỡng và trân quý. Cả bố và cô An cũng vậy, nhưng vẫn không bằng mẹ. Nhìn mẹ chắt chiu nhặt từng hạt gạo lỡ rơi xuống đất, hay ngâm nước lớp cơm cháy còn thừa ở dưới đáy nồi, để sau đó cậy ra rồi phơi khô bỏ vào hộp nhựa để dành, thì mới biết mẹ căn cơ và coi trọng hạt gạo, miếng cơm như thế nào. Hình như mẹ làm vậy là do thói quen hay kinh nghiệm từ ngày xưa thôi, vì chẳng khi nào thấy mẹ lôi cái hộp cơm cháy phơi khô đó ra để nấu lại cho cả nhà ăn, hay chế biến thành món ăn đặc biệt nào. Hỏi mẹ thì mẹ trầm ngâm bảo: “Mình ở trong Nam được may mắn khỏe mạnh lành lặn, đời sống thoải mái, tìm miếng ăn tương đối còn dễ dàng. Tuy nhiên có những người không may, già yếu ốm đau tàn tật, tứ cố vô thân, tha phương cầu thực, có khi phải đi ăn mày khổ lắm. Các con nên biết nghĩ đến những người không may mắn đó. Mẹ để dành số cơm thừa này để giúp cho mấy người ấy. Các con nếu thấy có ai đến xin ăn thì lấy ra cho họ. Nếu hết rồi thì bốc đổ vào túi cho người ta mấy nắm gạo.” Nghe lời mẹ, mỗi lần có ông lão hay bà lão đội nón lá rách, đeo cái bị đứng trước cửa, lẩm bẩm cái gì trong miệng nghe không rõ, chị Trang và tôi biết ngay bổn phận phải làm. Nhiều hôm, của đáng tội, quý vị ăn mày đến đông quá, những người đầu còn được nhiều cơm cháy hay ba nắm gạo. Mấy người sau chỉ còn được cho một nắm gạo hoặc thay gạo bằng tiền, một đồng hay năm mươi xu chẳng hạn. Được cái dù ít dù nhiều, ai cũng tỏ vẻ vui mừng cám ơn, trông thật tội nghiệp.


Thường thường vào chiều thứ Bảy đẹp trời thế này là chị Trang và tôi đã chạy sang nhà bạn bè hàng xóm để nhập bọn chơi với chúng nó rồi, nhưng hôm nay có anh Hướng, chị Hạnh và cháu Cương đến chơi, mẹ lại sắp làm cơm, hai chị em tôi bảo nhau bày trò chơi ở nhà, lỡ mẹ có cần sai gì thì không phải đi tìm. Sau một hồi bàn tính, chúng tôi mới quyết định chơi trò búng thun. Chả là vì hai chị em một trai một gái, mỗi đứa chơi rành một loại trò chơi khác nhau, phải tìm loại trò chơi nào cả hai chơi giỏi, hay dở gần như nhau thì mới không gây bất công, ganh tị. Món búng thun này chị Trang là con gái đáng lẽ phải chơi hay hơn tôi nhưng không hiểu sao, tay chị cũng lọng cọng không kém gì tôi, búng được vài phát là cọng giây thun, tưởng dễ ăn vậy, bị xoắn thừng và nằm giữa vạch phấn. Chị Trang và tôi mỗi người đều có một đoạn dây thun kết, được làm bằng những sợi dây thun đơn, cứ năm sợi chập lại, móc nối vào với nhau thành từng nấc. Đoạn dây thun kết càng dài thì tổng số tài sản dây thun càng nhiều, cứ mỗi nấc là năm cái nhân lên. Mỗi lần chơi búng thun chỉ cần tháo ra hai nấc, tức là mười cái, nhập chung với số dây thun của đối thủ để làm tài sản chung, sau đó oẳn tù tì xem đứa nào được đi trước. Đứa đi trước sẽ vơ hết hai mươi cọng dây thun nắm trong bàn tay, đưa hơi cao lên rồi thả xuống dưới đất bên phía của nó. Cọng thun nào rơi trúng vạch phấn kẻ ngang, phân chia vùng đất hai bên đối thủ, hay rơi hẳn sang bên kia, là coi như phần thưởng dành cho đối thủ, tên này sẽ được thu gom những cọng thun này về, coi như của nó. Đứa vừa thả đống dây thun xuống bắt đầu lựa những sợi thun nào dễ ăn nhất để búng trước, thí dụ như những sợi nằm lẻ loi, gần vạch phấn. Nó dùng một ngón tay, ngón nào cũng được, nhưng chỉ một ngón, búng sợi dây thun một cái, và chỉ được búng một lần, mỗi lần một sợi thôi, sao cho sợi dây thun này bay vượt qua vạch phấn lọt vào khu vực bên kia. Sợi thun đó sẽ thuộc chủ quyền của đứa vừa búng. Nếu búng thành công một sợi, sẽ được tiếp tục búng sợi thứ nhì và các sợi khác cho đến khi phạm luật, thì đến lượt đối thủ trổ tài thảy và búng những sợi dây thun còn lại. Hai chị em tôi chơi búng thun dở ngang nhau, nên thường kết quả chẳng bên nào ăn thua bao nhiêu. Nhưng cái trò búng thun cũng như giải gianh, banh đũa, lò cò, ít tốn kém mà tạo được những giây phút giải trí lành mạnh, vui vẻ, luyện tập sự khéo léo chân tay, thích hợp với tâm hồn trẻ con.


Khi cuộc chơi kéo dài được nửa tiếng thì thằng cháu Cương ở đâu lon ton bước đến bên cạnh đứng xem. Thì ra anh Hướng trông nó nãy giờ đã chán. Anh để nó đi lang thang trong nhà và lơ đãng bước theo sau vài bước. Thằng bé chắc đã quên nỗi sợ sâu gạo và nhớ hai cô cậu, vì dù sao trong nhà chỉ có chị Trang và tôi hay chơi với nó mỗi khi anh chị Hướng cho nó đến thăm ông bà ngoại. Cương tần ngần đứng cạnh tôi một chút, rồi ngồi bệt xuống, chăm chú nhìn những sợi dây thun xanh đỏ vàng trông đẹp mắt. Anh Hướng rút kinh nghiệm hai lần con khóc vừa qua nên cũng kéo ghế ngồi gần đó theo dõi. Để chắc ăn, anh dặn: “Các em cho cháu nó ngồi xem nhưng đừng cho nó cầm dây thun nghe. Trẻ con hay bỏ dây thun vào mồm nguy hiểm lắm.” Tuy vậy, chỉ một lát anh đã không chú ý đến thằng con đang ngồi dưới đất nữa, anh giở tờ báo đang cầm trong tay đọc tiếp. Từ lúc anh Hướng xuất hiện, tay chị Trang bắt đầu lọng cọng hơn, có mấy sợi thun thật dễ ăn mà chị búng không qua khỏi vạch phấn. Thưa cơ hội, tôi búng ăn liên tiếp mấy lần cho đến hết số dây thun của đợt chơi đó. Tôi vừa đang đếm ra mười sợi thun để tiếp tục một đợt chơi mới, thì cảm thấy hình như chị Trang có vẻ không muốn chơi nữa. Có lẽ chị bị mất tự nhiên khi có anh Hướng ở gần và đang muốn bỏ ra chỗ khác. Tôi đang chần chừ thì cũng vừa có tiếng mẹ gọi to: “Trang, Huấn, xuống mẹ nhờ cái này.”


Chị Trang thu nhanh đống dây thun của chị bỏ vào cái hộp giấy rồi cầm đứng lên. Tôi cũng gom những sợi thun của tôi bỏ vào túi ny-lông, nói với anh Hướng một câu để anh trông chừng bé Cương, xong cầm túi đi nhanh vào phòng bên cạnh, nơi có cái hộc gỗ, chỗ để đồ chơi của tôi. Cất cái túi đựng dây thun vào hộc rồi, tôi đi xuống bếp. Mẹ gọi lúc này thì thể nào cũng là chuyện làm cơm cần người phụ như nhóm bếp, nhặt rau, giã chả cá, giã cua đồng hoặc thiếu món gì phải chạy ra chợ mua thêm đây. Bình thường mẹ hay gọi một lúc cả hai đứa như thế, dù thật sự chỉ cần một cũng đủ rồi. Nhưng hôm nay coi bộ mẹ phải làm thức ăn nhiều, dù chị Trang đã xuống bếp gặp mẹ trước nhưng tôi cũng xuống luôn cho chắc. Thật đúng như tôi dự đoán, khi xuống đến nơi đã thấy chị Trang đang chuẩn bị vo gạo nấu cơm, còn mẹ thì cầm sẵn tiền và tờ giấy gì trong tay.


Vừa thấy tôi mẹ vẫy lại ngay. Thì ra lúc nãy đi chợ, mẹ còn quên vài món chưa mua, hay tưởng ở nhà còn nhưng vừa rồi kiểm lại mới biết đã hết. Nhiệm vụ mẹ giao cho tôi là chạy ngay ra chợ mua cho mẹ hai đồng xả, hai đồng nấm mèo, một đồng hạt tiêu xay sẵn. Chả biết mẹ làm món gì mà chỉ thiếu vài thứ nhỏ nhặt như thế mà cũng bắt đi mua về cho bằng đưọc. Như thường lệ, câu nói cuối cùng của mẹ trước khi đẩy tôi ra khỏi cửa sau vẫn là: “Nhớ mua xong về ngay nghe chưa, đừng ghé vào đâu chơi đấy, đồ ăn chỉ còn chờ mấy thứ ấy thôi, về ngay để mẹ làm không có nó ôi. Mua đúng mấy thứ đã ghi trong giấy nhé, nhớ đấy.” Tôi nghe câu nói này nhiều lần quá thành nhàm. Đối với mẹ, cái gì mẹ cũng giục phải làm nhanh. Thì đã bảo tính mẹ nóng mà. Tôi đã có quá nhiều kinh nghiệm về việc chạy ra chợ mua đồ lặt vặt cho mẹ như thế này. Chỉ cần nghe qua âm điệu giọng nói, cùng nét mặt của mẹ và tình hình trong nhà lúc ấy, tôi có thể đoán được công tác mẹ giao cho tôi thật sự cần làm nhanh chóng, đúng như lời mẹ căn dặn, đi đến nơi về đến chốn, hay có thể thong thả, lan man ngoài đường. Nếu không cần gấp thì vừa đi tôi vừa có thể ngắm đồ chơi treo trên tường của những tiệm tạp hoá, hoặc tấp vào bác nghệ nhân đường phố, xem bác trổ tài với đôi tay thuần thục, biến những lá dừa non màu vàng pha màu lá mạ thành hình con cào cào thật to, có cái bụng là cái kèn thổi kêu toe toe, hay con cá, con tôm hoặc chiếc máy bay bán với giá thật rẻ. Có khi hên gặp ông già Cao Đơn Hoàn Tán - là tên gọi mấy đứa trong xóm đặt cho ông như vậy vì không biết tên thật của ông -  làm trò ảo thuật biến giấy thành tiền, lấy trứng trong tay áo… để bán thuốc dán đau nhức. Ông lại còn có con khỉ nhỏ biết nhảy lộn vòng, đi xe đạp và làm một số trò, xong cầm nón đi vòng quanh đám người đứng xem để xin tiền thưởng. Đôi lúc có cả nhóm mấy chú người Tiều mãi võ Sơn Đông, nói tiếng Việt lơ lớ. Mấy chú này ở trần, chỉ mặc quần dài vải đen nẹp đỏ, bó ống vào giầy, đập chiêng trống vang lừng ngay đầu chợ, cất giọng oang oang thu hút người đến xem. Một chú trổ tài vận nội công làm bật đứt nhiều vòng dây thép quấn quanh ngực và bụng. Thi triển xong tài nghệ, chú mở nút chai rượu gần đó, rót ra cái chung nhỏ, ực hết ngay một ngụm, để chứng tỏ ai mua và uống thứ rượu các chú đang quảng cáo đó sẽ được đô con và khỏe như vậy.


Đấy là khi biết món đồ mẹ sai đi mua không phải là thứ cần mang về ngay cho mẹ thì tôi mới la cà mấy nơi như thế. Tuy nhiên, như hôm nay chắc là tôi phải hoàn tất cho nhanh công việc mẹ giao rồi. Những hôm nhà có khách ở lại ăn cơm là những lần mẹ tất bật lắm. Tôi bước nhanh ra đường hẻm sau nhà, tai còn nghe loáng thoáng tiếng cháu Cương khóc và giọng anh Hướng đang nói cái gì, hình như có chữ “dây thun” trong đó. Từ nhà ra chợ không xa nhưng tôi cũng rảo bước cho mau. Vừa đi tôi vừa ngẫm nghĩ không biết có bà mẹ nào giống tính như mẹ tôi không. Mấy đứa bạn hàng xóm đâu có đứa nào bị mẹ nó sai chạy ra chợ thường xuyên như tôi, chỉ để mua có một vài thứ gia vị nhỏ nhặt không đáng kể.


Mẹ tôi đi chợ hàng ngày, có khi một ngày đi hai lần mà tôi không hiểu tại sao mẹ vẫn thường sai tôi chạy ra chợ xoành xoạch . Lại có những lần vừa mua xong đem về mẹ bắt chạy đi lần nữa, mua thêm một thứ mà lúc nãy quên không dặn. Những thứ mẹ cần lúc thì cân đường, lạng mỡ, mấy quả trứng, lúc thì bó rau húng, rau răm, mấy quả chanh, quả ớt, hay đồng hành, đồng tỏi, ngũ vị hương… Có lẽ khi ở chợ, mẹ đã quên mất những món phụ, do chỉ bận tâm với thức ăn chính, lại muốn mua cho được thứ thật vừa ý. Tôi biết mẹ tôi chọn thức ăn để làm bếp kỹ lưỡng lắm. Tôi là con trai mẹ không chú tâm dạy nhưng chỉ cần nghe nhiều lần những điều mẹ chỉ dẫn cho chị Trang là tôi đã thuộc lòng. Đại khái như: “Thịt bò phải đúng thịt mới ra, còn đỏ tươi do bà Từ bán, không phải thịt trâu có màu đỏ xẫm. Thịt heo phải màu hồng hồng, sờ vào còn dinh dính. Chân giò phải là chân trước của con lợn tơ, ngửi không có mùi hôi, của hàng bà Tổng. Cá lóc phải còn đang bơi trong chậu, không có hoa, cá chép, cá lục phải mang go còn đỏ, con mắt chưa mờ đục, ấn ngón tay vào thịt còn chắc, chỉ mua của cô Mến. Cua phải là cua gạch, mai nó màu xanh đen, cầm nặng tay, lật ngược người nó lên lấy móng tay ấn vào bụng nó thấy cứng và chắc là được. Gà phải gà trống thiến hoặc gà mái dầu, nếu không thì mái tơ, con nào nhìn mắt lờ đờ, gục lên gục xuống, vãi thóc trước mặt không buồn mổ là gà mắc toi rồi, kỹ hơn phải cầm chân nhấc ngược lên, nắn đùi, sờ ức, xem phao câu…” Những ngày nhà có giỗ hoặc dịp Tết, mẹ bắt chị Trang hoặc tôi theo mẹ đi chợ, cầm thêm một cái giỏ. Ở vào tuổi lên bảy lên tám, tôi chưa biết mắc cỡ với mấy đứa con gái học cùng trường - cũng đang theo mẹ chúng nó đi chợ, hay phụ bán hàng - khi phải đứng chờ sốt cả ruột nhìn mẹ xăm soi, xét nét từng món hàng muốn mua. Không phải mẹ sợ tốn tiền nhưng như đã nói, mẹ rất khó tính trong việc chọn lựa thức ăn ngon. Có khi chỉ vì không tìm được một thứ vừa ý, mẹ vẫy xích-lô, bắt tôi lên theo, đi đến những chợ xa hơn, có nhiều đồ ăn tươi hơn để mua. Chẳng gì, tại mẹ làm cơm rất ngon. Điều này phù hợp với cá tính của bố tôi vì bố tôi khó ăn cực kỳ. Không phải bố đòi hỏi những món cao lương mỹ vị. Thức ăn mẹ nấu cho bố và cả nhà ăn là những món rất thông thường mà những gia đình khác đều ăn. Nhưng hình như chỉ có mẹ mới có thể tìm mua và nêm nếm, thêm mắm giặm muối, nấu nướng, chế biến sao cho món ăn đó vừa đúng với khẩu vị tinh tế của bố, và sau đó là của anh Huy. Anh Huy là người thứ nhì sau bố cũng kén ăn ghê gớm, nhưng anh thích ăn những món nấu theo kiểu Tây phương hơn là Á Đông. Điều này khiến mẹ khá vất vả vì không thể trong một bữa ăn, làm đến hai món chính, vừa mất công vừa tốn kém. Vì thế, chiều được chồng thì con trai ngúng nguẩy. Tuy vậy, mẹ thường cố gắng để trong mâm cơm có được cả đĩa cá thu nướng kho mía cho cả nhà, và một cái đùi gà rô-ti vàng rượm dành cho anh Huy. Mẹ làm cơm khéo là thế mà thảng hoặc bố cũng hơi cằn nhằn do mẹ sơ ý quên một chi tiết nhỏ nào đấy trong việc nêm nếm. Riêng tôi thì ngược lại, với cái nết dễ dãi, ăn gì cũng được, thì một đĩa chả cá thì là, giã lấy bằng thịt cá lóc tươi, mới rán còn nóng hổi, hoặc một bát giả cầy nấu măng thơm phưng phức của mẹ vừa làm, cũng chẳng khác một tô cơm nguội rang tóp mỡ có vẩy thêm tí tàu-vị-yểu. Đi học về đang đói bụng mà có được một tô cơm như thế thì cũng “tuyệt cú mèo” lắm chứ.


Lan man nghĩ ngợi, chân đi đến chợ lúc nào không biết. Ở đầu chợ chỗ gốc cây bông gạo, có một đám người đang xúm lại xem cái gì. Chắc lại có ai đang làm trò để dụ bán hàng gì rồi. Tôi tặc lưỡi nhủ thầm không ghé vào, sợ mải mê xem rồi lại về trễ mẹ la. Tôi đi nhanh vô trong chợ. Những món cần mua mẹ đã ghi trong giấy đưa cho tôi cầm cùng với tiền. Món nào mua ở đâu, mua của ai tôi cũng đã biết cả. Chợ buổi chiều trễ đã thưa thớt người, có sạp đang chuẩn bị dọn hàng về. Tôi lướt qua hai chỗ bán hàng, toàn là nơi quen biết và các cô các bác cũng đã nhẵn mặt tôi, nên việc mua bán diễn ra rất nhanh. Tôi chỉ việc nói món hàng cần mua và mua bao nhiêu thôi, không phải chọn lựa gì. Gom hết mấy thứ đã mua xong bỏ vào giỏ xách nhỏ, tôi quay trở về. Đi ngang lại chỗ đám người lúc nãy, chợt nghe có tiếng kêu: “Ê, Huấn, lại coi nè, hay quá nè.” Tôi nhận ra tiếng của thằng Hùng. Nó đang đứng trong đám người đó, một tay vẫy gọi tôi. Tự nhủ ghé vào xem một tí rồi về cũng không sao, tôi bước nhanh đến cạnh nó, nghển cổ nhìn vào. Ở giữa vòng tròn người bu quanh là một khoảng trống, có kê một cái bàn nhỏ. Trên mặt bàn chỉ bày một cái đĩa kiểu và trên cái đĩa là cái đầu búp bê con gái mang nét Tây phương bằng nhựa khá to, to hơn quả cam sành, để đứng trên mặt đĩa. Cái đầu búp bê không biết được lấy ra từ con búp bê nào, chỉ có từ ngang cổ trở lên. Một người đàn ông trung niên gầy gầy, quần áo khá lịch sự tuy đã nhuốm vẻ phong sương, một tay cầm cái hộp nhỏ giơ lên cao, miệng đang phát ra những lời ca tụng thứ thần dược, uống vào có khả năng trị tuyệt nọc nọc chứng tê thấp đau lưng, mỏi gối chồn chân, của tất cả mọi người. Tôi thắc mắc hỏi thằng Hùng:


- Mày nói hay là hay cái gì. Cái đầu con búp bê kia ấy hả?


Hùng trả lời, mắt nó vẫn nhìn về cái đĩa có đầu con búp bê ở trên:


- Ừ, cái đầu biết cử động, lạ lắm.


Tôi bắt đầu ngạc nhiên tò mò hỏi tiếp:


- Cái gì, cái đầu biết cử động? Mà nó cử động làm sao?


Lúc này Hùng mới quay lại nhìn tôi. Nó có vẻ thích thú vì đã có công gọi cho tôi đến xem một trò ảo thuật mà nó cho là rất kỳ lạ và hấp dẫn. Nó đưa bàn tay làm cử chỉ xoay một cái rồi nói:


- Cái đầu nó quay được như thế này này. Nó quay được cả về bên phải hay bên trái theo lời ra lệnh của chủ nó.


Đến đây thì tôi cũng lấy làm lạ không hiểu thằng Hùng nói có thật không. Làm sao cái đầu con búp bê ở trên cái đĩa mà lại biết cử động được. Tôi nhìn chăm chú vào cái đầu để quan sát kỹ hơn. Cái đầu búp bê vẫn nằm im trên cái đĩa đặt trên bàn. Lớp da mặt và cổ màu trắng hồng đã lấm bụi và có chỗ hơi lem luốc chứng tỏ nó đã theo người chủ phiêu bạt giang hồ khá lâu. Riêng hai con mắt vẫn xanh biếc như hai hòn bi ve, đang mở to nhìn chòng chọc vào đám khán giả trước mặt. Cái đầu búp bê này chẳng có gì đặc biệt so với những con búp bê khác, mà tôi đã thấy ở các cửa tiệm bán đồ chơi cho con gái, vào những lần được bố mẹ hay anh Huy cho đi theo lên chợ Bến Thành sắm đồ. Chị Trang ở nhà cũng có một con búp bê giống như vậy nhưng nhỏ hơn. Mấy con búp bê mà tôi đã thấy, giỏi lắm chỉ có thể nhắm mắt mở mắt và kêu oe oe khi đặt nó nằm xuống đứng lên, chứ có con nào biết cử động theo lời ra lệnh, mà lại cử động khi cái đầu đã bị cắt khỏi thân mình. Tôi đã nghi thằng Hùng nói xạo, nhưng những lời xì xào bàn tán của mấy người lớn đứng chung quanh lại chứng minh là nó nói thật. Ai cũng biểu lộ sự ngạc nhiên thích thú vì vừa được chứng kiến tận mắt một điều kỳ lạ: Cái đầu búp bê trên cái đĩa biết cử động quay trái quay phải theo lời ra lệnh của chủ nhân.


Đang chăm chú nhìn cái đầu trong lúc chú bán thuốc tê thấp vẫn đi vòng quanh mời mọc mọi người đứng xem móc tiền ra mua, tôi chợt nhớ bổn phận của mình phải mang mấy thứ mới mua về để mẹ làm thức ăn. Nãy giờ nấn ná ở đây mất hai ba phút rồi, bây giờ về ngay chắc cũng chưa sao, ở lại chờ không biết đến bao giờ mới được xem đợt biểu diễn kế tiếp. Tôi vừa lui người lại, và đồng thời trong đám người lớn đứng xem cũng đã có vài người bỏ ra về, thì chú bán hàng đã cầm cái que sắt gõ: “Keng! Keng! Keng!” ba phát rõ to vào cái thanh sắt cầm trên tay. Thằng Hùng thấy tôi lùi ra, biết tôi sắp bỏ đi, nó giữ tay tôi lại nói: “Ở lại coi, ổng sắp ra lệnh cho cái đầu nó quay kìa.” Tôi khựng lại nhìn vào. Chú bán hàng vừa đi sát vào những đứa con nít ngồi ở vòng trong cùng, vừa cao giọng kêu tụi nó lùi ra xa vài bước, để có thêm chỗ trống cho chú trổ tài ảo thuật, bắt cái đầu búp bê làm trò cho bà con coi chơi. Tôi tặc lưỡi tự nhủ, thôi ráng ở lại coi cho biết một hai động tác quay của cái đầu búp bê rồi sẽ chạy về cũng được. Bây giờ bỏ về thì uổng quá, mất dịp được xem một màn biểu diễn lạ kỳ. Sau này biết chú bán thuốc dạo kiêm ảo thuật gia tài tử này có còn trở lại hành nghề ở đầu chợ nữa không.


Đám người hiếu kỳ đã tụ lại sau khi hơi giãn ra lúc nãy. Hùng và tôi cố len vào sâu bên trong, nhưng cũng phải đứng sau hai hàng con nít. Nhà ảo thuật cầm cái đầu búp bê lên khỏi cái đĩa để chứng minh cho khán giả thấy không có sự liên hệ gì giữa cái đĩa và cái đầu, xong đặt cái đầu trở lại chỗ cũ. Chú lùi ra một bước rồi đứng khom người trước cái đầu búp bê trò chuyện với nó, gọi nó bằng con, nhắn nhủ nó phải ngoan ngoãn, biết nghe lời và cố gắng biểu diễn tài nghệ để phục vụ bà con cô bác. Lời giáo huấn nghe giống như của một ông bàu cải lương, dành cho diễn viên sắp lên sân khấu trình diễn, chứ không phải của người biểu diễn ảo thuật ngoài đường phố, nói với một cái đầu búp bê vô tri vô giác. Sau khi đã thực hiện xong những động tác và lời nói mào đầu, cốt để kích thích thêm tính tò mò và lòng hồi hộp của đám đông khán giả, nhà ảo thuật lui thêm một bước rồi ngồi quỳ một chân trước mặt cái đầu búp bê. Giây phút quan trọng bắt đầu. Cả đám người đứng chung quanh im lặng, nhìn không rời mắt cái đầu búp bê vẫn đang đứng yên trên đĩa. Ảo thuật gia vỗ hai tay vào nhau một cái rồi cất tiếng rõ ràng: “Quay qua phải coi.” Cái đầu khẽ nhúc nhích rồi từ từ quay như có ma lực nào xoay chuyển nó. Khi quay chưa đủ góc chín mươi độ về bên phải, cái đầu ngừng lại. Ảo thuật gia lại vỗ tay rồi ra lệnh: “Quay thêm một chút nữa coi.” Cái đầu từ từ quay nhích thêm cho vừa thẳng góc với vị trí lúc ban đầu. Mấy đứa con nít ngồi vòng trong không kềm được sự kích động, ồ lên kinh ngạc rồi vỗ tay rào rào dù nhiều đứa chắc đã coi qua mấy lần biểu diễn rồi. Một số người lớn cũng thích thú vỗ tay theo. Nhà ảo thuật, nét mặt vẫn bình thản, ra hiệu cho mọi người yên lặng rồi tiếp tục cuộc trình diễn. Lần này cái đầu được lệnh quay ngược trở về vị trí đầu tiên, tức là quay về bên trái chín mươi độ. Sau đó nó lại theo lệnh quay tiếp sang bên trái chín mươi độ nữa. Không biết chú bán thuốc dạo có phép thuật thật, hay bên trong cái đầu búp bê có chứa máy móc tân kỳ nào, mà những mệnh lệnh quay phải quay trái của chú đưa ra nó đều làm được và làm đúng. Đám trẻ con có đứa há hốc miệng ra, tròn xoe mắt nhìn như bị cái đầu búp bê thôi miên. Tôi cũng quên hết cả việc mẹ đang nóng lòng chờ tôi ở nhà, mắt cứ dán chặt vào cái đầu, nhất là chỗ cổ, nơi tiếp xúc với cái đĩa. Rõ ràng là nguyên cái đầu búp bê chuyển dịch xoay tròn trong khi cái đĩa vẫn nằm yên. Tài thật, làm sao chú bán thuốc dạo lại chỉ ra lệnh bằng lời nói mà cái đầu biết tuân theo mà làm như vậy.


Đang thắc mắc, và dường như cuộc biểu diễn ảo thuật vẫn còn tiếp tục với màn độc đáo nào nữa, thì một tiếng gọi lớn từ đằng sau vọng tới: “Huấn, đi về.” Tôi thót giật mình. Không cần quay lại, chỉ nghe giọng, tôi cũng biết người vừa kêu tôi là anh Huy. Tôi hiểu ngay ở nhà mẹ thấy tôi lâu không về đã sốt ruột bắt anh đạp xe đi tìm tôi. Lúc tôi rời nhà đi chợ thì anh Huy còn đi đâu chưa về. Chắc anh vừa về đến nhà thì mẹ sai đi kiếm tôi. Đây không phải là lần đầu anh làm công việc này. Đã có lần, chắc đang khó chịu chuyện gì mà phải đạp xe ra chợ tìm thằng em ham chơi không nghe lời mẹ, anh túm được tôi ở đám đá dế, điệu cổ ra xe, bắt ngồi ngang lên cái sườn sắt của chiếc xe đạp kiểu đàn ông, chỗ giữa cái yên người ngồi lái và “ghi-đông”, vì xe đạp của anh không có gắn chỗ ngồi đằng sau, rồi vừa đạp về vừa mắng tôi một trận như tát nước, tát từ trên đầu tát xuống. Xe về đến nhà tôi nhức đầu vì lời la mắng thì ít mà bị đau ê hết hai mông thì nhiều, do con đường từ chợ về nhà không phải đường nhựa mà là đường đất, gồ ghề lồi lõm, đầy ổ gà và mô rùa. Nghe tiếng anh Huy gọi tôi vội lùi người ra rồi quay lại, chuẩn bị nghe  những lời bực tức của anh. Nhưng trái với dự đoán của tôi, anh không tỏ vẻ khó chịu mà chỉ bảo tôi mau leo lên xe để anh chở về vì mẹ đang mong. Trên đường về, để khoả lấp cái tội la cà ngoài đường, tôi gợi chuyện về cái đầu búp bê biết quay để hỏi xem anh có biết tại sao không. Anh cười đáp:


- Ờ, anh cũng đứng ngoài xem từ lúc cái đầu đang quay từ bên phải về. Cái này hơi lạ nhưng chắc đây là loại búp bê điện tử, bên trong cái đầu có động cơ chạy bằng pin và có cả bộ phận cảm nhận tiếng nói ra lệnh của con người.


Thì ra anh Huy cũng bị cái đầu búp bê hấp dẫn đứng lại xem một lúc rồi mới kêu tôi về. Thấy anh vui tôi an tâm, vì có đồng minh hay ít nhất không bị anh la mà chỉ còn lo mẹ mắng khi về nhà. Chợt nhớ lúc đứng coi, có mấy đứa trẻ con ngồi vòng trong cùng bắt chước chú bán thuốc dạo ra lệnh cho cái đầu búp bê quay phải quay trái, nhưng nó không hề nhúc nhích, tôi lại hỏi anh:


- Thế sao có mấy đứa nhỏ ngồi gần cái đầu, la lên, ra lệnh cho nó quay mà nó đâu có quay?


Anh Huy trả lời ngay không chần chừ:


- Nó chỉ quay khi nghe đúng giọng nói của người chủ thôi. Trước khi ra lệnh còn phải vỗ tay một cái để làm hiệu cho nó chú ý.


Câu trả lời của anh Huy đã giải đáp bớt thắc mắc của tôi về chiếc đầu búp bê kỳ dị nhưng với trí óc trẻ con ngây thơ của tôi, nó hãy còn ám ảnh tôi suốt thời gian ngồi trên xe đạp của anh từ đầu chợ về đến nhà. Lần này, không biết có phải anh thông cảm cho thằng em phải ngồi trên cái chỗ ngồi bất đắc dĩ, không lấy gì làm êm ái, mà anh đạp xe nhanh vừa phải, và tránh chỗ có thể tạo ra những cú sốc làm đau mông người ngồi. Trước khi về đến nhà, tôi lại thắc mắc:


- Tại sao người ta lại cắt cái đầu con búp bê ra khỏi người nó vậy anh nhỉ. Trông nó tội nghiệp làm sao?


- Anh không biết. Chắc tại con búp bê này vì lý do nào đó bị hư hỏng phần thân mình từ vai trở xuống hay vì nguyên do nào nữa. Nhưng có điều không biết tại sao chú bán thuốc dạo lại có cái đầu búp bê này mà đem ra làm trò, dụ người ta mua thuốc như vậy?


Anh Huy nổi tiếng thông minh trong nhà. Những gì tôi không biết, hỏi anh, anh đều trả lời được. Đúng sai không rõ nhưng chỉ thấy những người lớn trong nhà đều hay chê tôi là khờ với dốt và khen anh là khôn lanh thì tôi tin anh giỏi và biết nhiều lắm. Vả lại, anh học trên tôi đến sáu lớp cơ mà. Theo bố mẹ tôi kể thì anh cũng sáng dạ hơn tôi nhiều, vào thuở anh bằng tuổi tôi bây giờ. Vừa rồi anh tự hỏi không biết tại sao chú bán thuốc dạo lại có được cái đầu búp bê thì điều này quả thực ngoài sự suy nghĩ của tôi. Nếu anh đã không biết thì làm sao tôi biết được? Điều tôi đang quan tâm là phải nói cho chị Trang hay về chuyện cái đầu búp bê này để chị ngạc nhiên chơi, và khi vào trường, tôi cũng phải kể cho mấy đứa bạn trong lớp nữa.


Xe đạp đã về đến nhà. Tôi xuống xe rồi líu ríu đi vào, chuẩn bị nghe mẹ mắng và có thể sẽ bị vài cái roi mây vào lưng. May quá, chắc hôm nay tôi gặp may, mẹ chỉ nạt cho tôi vài câu, nặng ngang với những lần mải chơi với bạn ngoài đường, nghe lời mẹ gọi mà không ngừng tay về nhà ngay, như cái hôm chơi bắn bi với thằng Hùng hôm nào. Mẹ giật lấy cái túi trong tay tôi rồi nhẹ giọng: “Thôi đi lên chơi với thằng Cương đi. Nhắn chị Hạnh xuống mẹ bảo. À này, chơi với cháu nhớ phải cẩn thận. Lúc nãy làm sao mà nó giấu được sợi dây thun trong tay, đang cho vào mồm thì may bố nó nhìn thấy giựt ra được. Nó mà nuốt phải thì như gà mắc dây thun đó nghe chưa.” Nói xong mẹ quay vào bếp bận rộn với  thức ăn. Hình như mấy món thịt tươi đã được chuẩn bị xong xuôi, chỉ còn chờ vài thứ tôi vừa mua về là có thể chiên nướng xào nấu nướng. Bữa cơm hôm nay chắc thịnh soạn, chị Trang vẫn loay hoay trong bếp phụ mẹ. Chị đang nhặt rau húng quế và tía tô trong rổ, bên cạnh là cái đĩa to hình bàu dục xếp đầy rau xà-lách tươi rói, và  hai cái đĩa giang tây đựng những lớp bún trắng phau, được gỡ ra từ trong mấy miếng lá chuối xanh. Gần đó có bát nước mắm đã pha, ửng màu hổ phách, với những lát ớt đỏ tươi nổi lềnh bềnh chen lẫn đám tép chanh còn sót lại. Nơi góc bếp, nồi cơm to đang ghế, vài cục than đặt nằm trên chiếc vung bằng gang còn tỏa ánh hồng. Thoảng trong không khí, mùi cơm gạo Nàng Hương sắp chín tới làm nức lòng cái dạ dày háu đói của tôi.


Tôi định đến kể cho chị Trang nghe điều đang chất chứa trong lòng, nhưng thấy chị bận và cũng ngại đứng lại dưới bếp sẽ càng cồn cào trong bụng hơn nên lại thôi. Tôi đi nhanh vào phòng trong, qua gian giữa rồi lên nhà trên tìm chị Hạnh và bé Cương. Nhớ câu mẹ nói vừa rồi, tôi lẩm bẩm: “Lạ thật, chị Trang và tôi có đưa cho thằng Cương cái dây thun nào đâu mà nó có ở trong tay để đưa lên miệng.” Chị Trang lúc vừa qua, khi nghe mẹ nói với tôi về việc này, cũng đã biểu lộ sự ngạc nhiên qua nét mặt và cái nhún vai, ý muốn diễn tả sự không hiểu nổi của chị. Chẳng lẽ Cương thừa lúc hai chị em tôi không để ý, giấu một cái dây thun vào trong tay mà tụi tôi không hay biết. Nó còn nhỏ thế làm sao biết cái trò dấu đồ vật như vậy. Nhưng tất cả đều có thể xảy ra, biết đâu do sự tình cờ chứ không phải Cương cố tình dấu. Phải rồi, biết đâu từ lúc anh Hướng và bé Cương xuất hiện, chị Trang vì lo chuyện mất tự nhiên của chị mà quên không để ý đến Cương, còn tôi lại lợi dụng cơ hội chị đang lúng túng đó để lo búng cho ăn được nhiều sợi dây thun hơn. Do đó hai chị em tôi đã lơ là, không để mắt đến thằng cháu đang ngồi ngay bên cạnh. Cương có thể nhón được một sợi dây thun nào đó lăn đến gần nó nhất vào lúc tan cuộc chơi, rồi giữ trong tay tưởng rằng đó là món đồ vô hại, như cô và cậu nó vừa ngồi chơi với đống dây thun trước mặt nó. Không hiểu sao hôm nay có lắm việc tình cờ xảy ra với bé Cương thế. Tôi tự nhủ: “Từ giờ trở đi phải cẩn thận mới được.” Người nuốt dây thun ra sao tôi chưa biết chứ gà nuốt dây thun thì tôi thấy rồi, cứ nghẹn lên nghẹn xuống, cái đầu ngúc ngoắc trông khổ lắm.


Chưa bước đến phòng khách, tôi đã nghe giọng trầm vang của bố từ trong phòng vọng ra. Bố đã về trong lúc tôi chạy ra chợ. Tôi bước vào phòng thì thấy ngoài bố và anh Hướng, có cả cô An, chị Hạnh, em Duy và cháu Cương nữa. Người lớn đang trò chuyện vui vẻ còn hai đứa bé thì đứa được bế trong lòng, đứa đang xà vào lòng mẹ. Tôi lên tiếng báo cho chị Hạnh biết để chị xuống bếp gặp mẹ và để tôi chơi với cháu Cương. Không biết có phải do kinh nghiệm ba lần để thằng con yêu quý  ở gần cậu nó đều xảy ra những điều đáng ngại không, mà khi thoáng nghe tôi nói với chị Hạnh như vậy, anh Hướng đã ngưng ngay câu chuyện đang nói với bố tôi, và bảo chị để con ở lại anh trông, còn tôi nếu cần thì theo chị cùng xuống dưới bếp phụ làm cơm cho mau xong việc. Thế cũng tốt, tôi khỏi phải chơi với cháu và cũng chẳng dại gì tình nguyện làm phụ bếp. Không ai bắt làm gì thì tôi về phòng lấy đồ chơi của tôi bày ra chơi một mình. Thoảng trong không khí đã có mùi thịt nướng từ dưới bếp bay lên thơm nức mũi.


Bữa cơm hôm đó thật ngon lành với ba món ăn chính, mà nổi bật là món bún chả thịt nướng. Đồ ăn ngon một phần nhờ khung cảnh đoàn tụ gia đình vui vẻ vào tối Thứ Bảy, một phần lớn hơn, do tài nấu nướng của mẹ với sự phụ trợ của chị Hạnh, chị Trang. Và đúng ra, có thể kể cả phần nhỏ xíu, là công tôi không nghe lời mẹ, đi chợ về trễ. Bố tôi vừa nhai miếng chả vừa gật gù khen: “Món chả hôm nay thơm đúng vị đấy. Lần trước mùi xả với tiêu ngấu vào thịt làm sai hương vị của nó đi. Tẩm tiêu với xả thì phải tẩm sau cùng và ít xả thôi, rồi cho vào bếp than nướng ngay.” Có phải nhờ vội ướp thêm tiêu với xả vào âu thịt băm đã ướp sẵn các gia vị khác trước, xong nướng ngay, vì đã trễ, mà lần này mẹ vô tình làm được món chả thịt nướng đúng như ý bố muốn không? Mọi người ăn uống vui vẻ, chuyện trò râm ran kéo dài, hết chuyện người lớn đến chuyện trẻ con, tình cờ sang đến chuyện từ chiều đến giờ cháu Cương ba lần khóc, mà lần thứ ba là lần bị bố cháu mạnh bạo tước mất sợi dây thun đang nằm trong tay khi đang sắp sửa được thưởng thức xem mùi vị nó thế nào, có giống như sợi mì trong tô mì vịt tiềm không. Mẹ tôi, vẫn chỉ ăn cầm chừng như mọi khi, ngừng đũa gắp, nói: “Con Trang với thằng Huấn chúng nó hãy còn ham chơi lắm, giao con cho chúng nó phải cẩn thận. Ai đời để cho thằng bé chơi thế nào mà làm đổ cả một đống gạo nữa.”


Thời gian trôi qua thật nhanh, mới ngày nào cây thiên lý còn là những nhánh mầm non nớt ẻo lả, thì nay đã mọc vươn lên, cao khỏi mặt giàn, và tỏa lan ra nhiều nhánh phụ. Những chiếc lá hình trái tim bàu bàu, màu xanh mát mắt đã tạm nhiều để phủ che ánh nắng chiếu xuyên qua những ô khung gỗ hình vuông ở mặt giàn thành bóng hoa râm trên mặt đất. Đứng ở dưới nhìn lên đã không còn quá chói, nếu chịu khó nghiêng đầu một tí, để tia sáng mặt trời ở những chỗ trống không rọi thẳng vào mắt. Suốt mấy tháng từ giữa Xuân sang Hè, ngày nào mẹ tôi hoặc cô An, và lúc sau này là tôi hoặc chị Trang, đều chăm chỉ tưới nước cho cây đều đặn. Mẹ thỉnh thoảng lại lấy phân bón, bón thêm vào gốc cây đã cứng cát và nở to ngang bằng ngón tay cái. Bố tôi cũng theo dõi sự sinh trưởng của cây, tuy không đều đặn bằng mẹ. Vài lần, bố bắc ghế đứng lên để buộc cho những cọng nhánh chính nằm ép đều xuống mặt giàn. Bố giải thích: “Phải giữ cho nó mọc lan ra đều khắp giàn, không để nó mọc lộn xộn, không đẹp.”


Mùa Hè năm đó vừa xong lớp Nhì, được nghỉ học gần ba tháng, tôi tha hồ rong chơi cùng chúng bạn trong xóm. Hết bắn bi, tạt lon, đá dế, đánh khăng, đánh cù, đánh đáo, bịt mắt bắt dê trong đường hẻm hoặc trong sân nhà, lại rủ nhau trèo tường vào trường đua Phú Thọ những hôm không có đua ngựa, mỗi đứa thủ một cái ná làm bằng ba miếng da bò và mấy sợi dây thun nối lại. Loại ná này rất tiện, có thể nhét vào túi quần gọn gàng vì không cần cái chạc cây hay khung gỗ đẽo kềng càng vướng víu. Khi cần xử dụng, chỉ việc nhét hai miếng da bò đã được buộc thun hai đầu, vào ngón tay trỏ và ngón giữa của bàn tay phải, tay trái cầm viên sỏi đặt vào miếng da bò còn lại ở giữa hai miếng kia rồi kéo căng ra, đưa lên nhắm bắn. Nói là rủ nhau vô trường đua Phú Thọ bắn chim, vì trong đó có nhiều cây, cao thấp đủ kiểu, mà nhiều nhất là cây điệp, cây gòn, chim sẻ, chim sâu, chim gi và các loại chim gì khác làm tổ chuyền cành, bay lượn nhảy nhót, hót ca tưng bừng, nhưng mục đích chính không phải là bắn chim. Bắn được một con chim trên cành cây cao, linh động, di chuyển liên tục, đâu phải là chuyện dễ như bắn bi ở dưới đất. Hơn nữa mẹ tôi vẫn khuyên tôi đừng nên bắn chim, tội nghiệp chúng nó. Mẹ lại còn bảo hòn sỏi bắn lên trời sẽ rơi xuống đất, lỡ trúng người ta vỡ đầu chảy máu thì làm sao.


Với bản tính trẻ con ham vui, và cái ná giản dị thì chúng tôi chui vào trường đua Phú Thọ chỉ trước hết là để chạy chơi khắp nơi cho giãn gân giãn cốt, sau đó đi bắt dế, bắt cào cào châu chấu, những con cào cào châu chấu voi to bằng ngón tay cái, búng thật khỏe, bay thật xa, và sau cùng là đi săn cắc kè. Trong trường đua, ngoài chim ra, cắc kè là giống động vật bò sát xuất hiện trên các thân cây và cành cây khá nhiều. Bắn hay bắt được cắc kè cũng chẳng có lợi gì ngoài việc thoả mãn cái tính ham vui và háo thắng vặt. Con cắc kè được trời phú cho cái tài thay đổi màu da để phù hợp với cảnh vật môi trường xung quanh, đỡ bị kẻ thù làm hại, nhưng lại rất khờ ở cái biết có sự nguy hiểm mà không chịu chạy trốn ngay. Bọn trẻ con chúng tôi khi phát hiện ra một con cắc kè cỡ lớn, cái đầu đỏ tía ửng vàng, sừng gai lởm chởm, thân mình xanh biếc đang bám mình trên một cành cây không cao lắm là bảo nhau đưa ná lên bắn liền. Con cắc kè tuy dài nhưng lại nằm sát vào cành cây và chỉ cái đầu hơi ngẩng cao một chút nên bắn trúng nó cũng khó. Tuy vậy, nhờ nó ngu, không chịu chạy trốn đi chỗ khác, mà chỉ né tránh khi đã biết có những viên đạn bắn xuýt trúng nó hoặc trúng vào cành cây ngay cạnh chỗ nó bám, cuối cùng cũng có một viên bay trúng đầu làm nó rớt xuống dưới đất. Đám trẻ con chúng tôi bu lại xem. Con cắc kè bị thương nặng bây giờ mới cố gắng tìm chỗ trốn. Nhưng một đứa trong bọn đã dùng chân đè lên thân mình nó, rồi lấy cọng cỏ gianh cột vào cổ cầm tòng teng, kéo lê cái đuôi dài, thòng xuống mặt đường, đem về làm chiến lợi phẩm hù dọa lũ con nít trong xóm, đồng thời làm giật mình, e sợ cả mấy cô gái đi ngang qua.


Những chuỗi ngày nghỉ Hè trôi qua thật êm đềm sung sướng. Tôi chỉ việc ăn, ngủ, chơi và phụ việc cho bố mẹ những gì bố mẹ sai bảo. Tôi lớn nhanh trông thấy như lời mẹ tôi nhận xét sau lần được bố cho cả nhà đi Vũng Tàu một tuẩn lễ, cư ngụ tại khu nhà nghỉ mát dành riêng cho giáo chức. Cây thiên lý như cũng được thấm nhuần sinh khí mùa Hè của đất trời, hay cảm thông được nỗi niềm đợi mong của con người, mà phát sinh cành lá rất xum xuê tươi tốt, đua màu xanh mơn mởn với giàn bàu mướp bên cạnh. Những con bướm trắng, bướm vàng, bướm đốm và ong vò vẽ, ong bàu đã chập chờn bay lượn rồi đậu lại hút mật trên những nhụy hoa mướp hoa bàu, có khi sà xuống cả hoa đậu hoa bí bên dưới. Vài con chao mình ngang qua giàn thiên lý thăm dò, nhưng một chút rồi lại bay đi, chắc vì chưa phát hiện ra một bông hoa nào trong đó. Con đường chái nhà trước đây phải chịu những ngày nắng gắt, vì không có mái che, thì bây giờ đã rợp mát bóng cây. Bố tôi đã mua về một cái băng ghế dài, có chỗ dựa, kê ngay dưới giàn thiên lý để ngồi hóng mát mỗi buổi chiều. Một hôm, nóng lòng muốn được ăn canh hoa thiên lý mà mẹ đã từng khen là không có món canh nào thơm ngon bằng, nhân lúc mẹ đang đứng ngước nhìn giàn thiên lý, tôi hỏi mẹ:


- Mẹ, cái cây thiên lý ra nhiều lá nhiều ngọn rồi mà sao không có hoa. Hay mẹ lấy lá nó nấu canh ăn trước đi mẹ.


Mẹ tôi mỉm cười vỗ vai tôi rồi bảo:


- Con chờ thêm một tuần nữa đi. Cây nó đang ra hoa đấy. Đợi ra hoa rồi mẹ nấu ăn mới đúng hương vị canh hoa thiên lý.


Tôi ngạc nhiên hỏi tiếp:


- Ơ, sao con có thấy nó ra hoa gì đâu?


Mẹ tôi lại xoa đầu tôi nhẹ nhàng bảo:


- Tại con đứng ở dưới nhìn lên không thấy rõ, lá che đi đấy. Hoa nó hay mọc ở gần ngọn cây phía ngoài ánh sáng mặt trời. Con lấy cái thang gỗ ra đây, leo lên mà xem nhưng phải cẩn thận không ngã.


Tôi nghe lời mẹ, đi lấy cái thang nhỏ vẫn dựng ở góc chái nhà đem ra ngay chỗ mẹ đang đứng rồi leo lên vạch lá nhìn. Quả thật nơi những nhánh lá gần ngọn cây quanh chỗ tôi quan sát đã mọc ra lốm đốm những nụ hoa nhỏ bằng đầu tăm. Những nụ hoa còn nhỏ, chưa thành hình dạng rõ ràng để biết xem khi lớn lên nở thành hoa nó sẽ ra làm sao. Tôi leo xuống, cất thang đi và phải phục là mẹ tôi nói đúng. Làm sao mẹ biết là cây thiên lý đang ra hoa khi mà mẹ chẳng cần đứng lên thang hay ghế và phải vạch lá ra nhìn như tôi?


Rồi mỗi ngày tôi đều tò mò theo dõi những nụ hoa thiên lý như thế, lúc thì ở vị trí này, lúc ở vị trí khác. Cây thiên lý này chắc là giống tốt nên ra nhiều nụ tuy mới là năm đầu. Mấy nụ hoa càng ngày càng to và mọc dài ra. Sau một tuần, chúng đã trưởng thành, nhô lên thành hình những mũi giáo hướng ra nhiều phía, thân nụ căng phồng, lộ năm khía màu vàng nhạt, sẵn sàng nở bung ra, đứng dưới đất nhìn lên cũng thấy rõ qua những kẽ lá.


Vào buổi sáng hôm ấy, vừa thức giấc sau một buổi tối thức khuya nghe bố kể chuyện cổ tích cho chị Trang và tôi nghe, trong đó có sự tích cây thiên lý, tôi thoáng ngửi thấy một mùi hương thoang thoảng trong không khí. Một mùi thơm rất lạ và rất thanh mà khứu giác non nớt của tôi chưa từng bao giờ được nhận biết qua. Tôi bật mình ngồi dậy, mặt trời đã lên cao, rọi ánh nắng cuối Hè còn khá chói chang lên vạn vật. Ngửi mùi hương mới, tôi liên tưởng đến những bông hoa thiên lý. Phải là hương thơm của hoa thiên lý thôi, tôi thầm nghĩ. Tôi bước ngay ra chái nhà, mỗi bước đi là mỗi cảm nhận đến gần hơn nguồn hương thơm ngạt ngào mà thanh thoát. Mẹ tôi, cô An và chị Trang đang đứng dưới giàn thiên lý nhìn lên, và đang say sưa hít thở mùi hương ngát thơm. Qua những kẽ lá, bao bông hoa thiên lý đã nở bung năm cánh, sắc vàng chanh, trông như những ngôi sao nhỏ rung rinh vươn mình trong nắng. Chắc hương thơm từ những bông hoa này đã dịu dàng đánh thức giấc ngủ say với bao mộng mơ êm đềm của tôi đây. Hoa thiên lý không sặc sỡ mỹ miều như những loại hoa vương giả kiêu sa. Hoa chỉ mộc mạc chân quê nhưng mùi thơm của hoa thật lạ, không giống như bất cứ mùi hoa nào mà tôi đã được ngửi qua. Nó không thơm thanh kỳ như ngọc lan, đài các như hồng, nồng ngát như dạ lý, hay quyến rũ như đại, mát mẻ như nhài, man mác như bưởi, dìu dịu như cau là những mùi thơm khá quen thuộc bắt người ta phải nhớ ngay, biết đến. Nó cũng không quá nhẹ nhàng và kín đáo như cúc, như quỳnh, hay như lan, như huệ chỉ thơm thoang thoảng khi đến gần và vào một khoảng thời gian nào đó trong ngày. Nó càng không giống như hoa mướp, hoa bàu, hoa bí tuy cùng ăn được nhưng những loại hoa đó dân giả quá và hương thơm chẳng có bao nhiêu. Mùi thơm của hoa thiên lý bình dị mà vẫn thanh cao, ngạt ngào mà không kiểu cách, một mùi thơm không chỉ để cảm nhận mà còn để tận hưởng, để nuôi sống. Dường như chỉ có hoa thiên lý là loài hoa mà người ta có thể dùng làm thực phẩm rất ngon mà còn được thưởng thức hương thơm thật thanh khiết, gần gũi và thân thiết với con người. Mẹ bảo tôi bắc thang ra hái cho mẹ những cọng lá non vừa, và mấy chùm hoa thiên lý có những bông đã nở, chen lẫn những nụ hoa ở chung quanh. Mùi thơm hoa thiên lý càng đánh vào khứu giác tôi mạnh hơn, khi cả khuôn mặt tôi đã ghé gần sát với những chùm hoa. Những con ong và bướm sốt sắng đi tìm mật chợt chao lượn trên mặt giàn khi chúng thấy tôi thò tay lên như để giành lấy những bông hoa quý của chúng. Mà tôi giành hoa của chúng thật. Tôi ghen tị, thầm nghĩ để mấy chú ong, cô bướm này hút hết mật nhụy phấn hoa thì bông hoa đâu còn thơm ngon nữa. Tôi phải hái cho nhanh để những bông hoa còn mật còn phấn sẽ giữ được mùi hương, cho mẹ tôi làm món canh hay món xào như mẹ đã hứa.Tôi hái đầy một rổ vừa lá vừa hoa lẫn nụ đem xuống cho mẹ. Mẹ tôi cầm một nhánh hoa đưa lên nhẹ ngửi rồi nhìn với nét mặt bồi hồi cảm động. Cô An và chị Trang cũng với tay, mỗi người cầm một nhánh. Mẹ trầm ngâm rồi nói nhỏ như chỉ để cho một mình mẹ nghe:


- Đã lâu lắm bây giờ mới được nhìn thấy và ngửi mùi hoa thiên lý.


Cô An bâng khuâng tiếp lời như đang nhớ về một dĩ vãng xa xôi:


- Phải, đã lâu rồi.. Ngày ấy nhà mình vẫn có giàn thiên lý… Mới ngày nào bây giờ đã xa quá rồi.


- Ngày xưa mẹ vẫn nấu.. canh hoa lý đấy…


Mẹ tôi dường như còn muốn diễn tả thêm điều gì, nhưng giọng mẹ đã ngập ngừng, mẹ nói không hết câu. Hình như mắt mẹ đã hơi ươn ướt. Phút giây yên lặng đầy cảm xúc sẽ còn kéo dài nếu không có tiếng khóc của em Duy từ trong nhà vọng ra. Cô An vội bước vào trong phòng, mẹ tôi cầm rổ lá và hoa thiên lý đi xuống bếp. Mẹ bảo tôi đánh răng rửa mặt, làm vệ sinh cá nhân, ăn sáng rồi chuẩn bị theo mẹ ra chợ để mua đồ ăn về làm giỗ, vì hôm nay là ngày giỗ bà ngoại. Chị Trang được phân công ở nhà nhặt sạn, thóc trong gạo và nhặt rau, cũng như lo cho gà ăn. Hai mẹ con ra chợ một lúc đã mua đủ các thứ cần thiết. Hình như mẹ không cần mua nhiều thức ăn như những lần giỗ khác. Mẹ cũng không quá kỹ lưỡng trong việc chọn lựa như thói quen đi chợ thường ngày của mẹ. Mặt mẹ có nét tư lự và buồn buồn. Chắc mẹ đang nhớ về bà ngoại, mẹ của mẹ. Bà ngoại đã mất sau khi ông ngoại mất vài năm, trước khi tôi sanh ra đời, và là người mà mẹ tôi, cô An và các bác tôi rất thương quý. Ấy là tôi nghe mẹ kể lại như vậy. Đương nhiên tôi chẳng hình dung được bà ngoại hay cả ông ngoại ra làm sao, ngoài việc thỉnh thoảng vô tình nhìn thấy ảnh vẽ truyền thần chân dung ông và bà trong quyển “an-bum”, mà đôi lúc mẹ hay cô An giở ra xem. Cứ như lời mẹ, cô An và các bác, thì bà ngoại là người rất thương con cháu và lúc nào cũng hết lòng lo lắng cho chồng con, cho gia đình. Đối với họ hàng thân tộc thì một mực thăm hỏi giúp đỡ khi cần thiết, một giọt máu đào hơn ao nước lã. Còn với làng xóm thì giữ tình thân ái, hòa hợp, tối lửa tắt đèn có nhau, có khi còn “bán anh em xa, mua láng giềng gần”. Trước khi mất, bà đã dặn dò các con phải thương yêu đùm bọc lẫn nhau, lá lành đùm lá rách, và cố gắng chu toàn bổn phận người vợ cũng như người mẹ trong gia đình, lo cho chồng con, như bà đã thực hành trong suốt một đời.


Sau khi đi chợ về, tôi và chị Trang đã được giao nhiệm vụ trông em Duy cho cô An xuống bếp phụ mẹ làm cơm. Bữa cơm trưa nay cũng là bữa cơm giỗ bà ngoại. Theo lời mẹ, chị Hạnh và cháu Cương cũng sẽ đến để cúng bà. Anh Hướng không chắc đến được vì bận việc quân vụ. Khi thức ăn đã được làm xong thì mẹ và Cô An đem bày lên bàn thờ để cúng. Bên cạnh đĩa trái cây, lọ hoa, là hai bát cơm trắng, hai đôi đũa son, hai cái thìa, hai bát chè “bà cốt” và mấy món ăn giản dị như đĩa cá đối kho tiêu, bát canh đậu hũ cà chua với hẹ, là những món mẹ bảo là bà ngoại ưa thích ngày bà còn sinh tiền. Ngoài ra, tôi thấy có một đĩa xôi đậu xanh, một con gà luộc, một đĩa chả quế. Và sau hết, mẹ trịnh trọng bưng lên hai bát canh hoa thiên lý nấu với thịt băm thật khéo, màu lá và hoa hãy còn xanh tươi như vừa mới hái. Mùi thơm của hoa và lá thiên lý quyện với mùi đậm đà quyến rũ của thịt băm, bốc lên từ nồi canh ở dưới bếp, đi theo hai bát canh nóng hổi lên phòng khách, nơi đặt bàn thờ, đánh át mùi những món thức ăn khác làm tôi thấy đói bụng. Thức ăn để cúng được bày biện xong thì chị Hạnh và cháu Cương cũng vừa đi xe xích-lô đến. Mẹ tôi thay bộ quần áo mới và cùng cô An thắp hương cúng ở bàn thờ. Trước đó bố tôi đã cúng bà và trở về bàn làm việc của bố. Đôi mắt mẹ mở to, lấp lánh ánh nến, nét mặt mẹ thật thành khẩn, trang nghiêm. Miệng mẹ lâm râm khấn niệm những điều gì tôi nghe không rõ, dường như có những tiếng “giản dị”, “hết lòng lo lắng”, “canh hoa thiên lý” và “phù hộ”. Cúng bà xong, mẹ và cô An lui ra để đến lượt anh chị em chúng tôi cúng. Tôi nào biết cúng kính ra làm sao, có mấy câu mẹ dạy để nhẩm trong đầu cũng quên, chỉ biết đứng chắp tay vái vái mấy cái rồi đứng im, sau đó mau chóng lẩn ra ngoài trước.


Bữa cơm giỗ bà lần này mang hương vị đặc biệt nhờ hai bát canh hoa thiên lý. Mọi người ai cũng tấm tắc khen canh thơm ngon hơn những loại canh khác và đã lâu lắm mới được thưởng thức lại. Riêng tôi với chị Trang, đây là lần đầu tiên sau bao ngày chờ đợi, được ăn canh hoa thiên lý mẹ nấu. Không biết chị Trang nghĩ thế nào, phần tôi, tôi công nhận lời mẹ nói là đúng. Gắp những cọng lá lẫn hoa và nụ thiên lý, đã nấu chín mà vẫn còn xanh tươi, đang tẩm đẫm nước thịt băm đưa lên miệng nhai mới cảm thấy tất cả hương vị thơm ngon hài hòa thật đặc trưng của hoa thiên lý mà những loại lá, hoa và rau khác không có. Thoảng trong không khí, có mùi thơm từ giàn thiên lý, nhẹ nhàng phảng phất theo làn gió thổi vào càng làm tăng thêm sự hấp dẫn của món ăn. Quả thật, đây là món canh ngon nhất, ngọt nhất, thơm nhất, đặc biệt nhất mà tôi đã từng được nếm. Có phải canh hoa thiên lý đáng yêu, đáng quý, đáng trân trọng, đáng vinh danh vì lá và hoa được hái từ loài cây mang tinh chất đặc biệt hương hoa của đất trời kết tụ lại và sinh sôi trên khắp ba miền nước Việt, đem bóng mát, hương thơm, nguồn thực phẩm hữu ích đến cho mọi người? Hay vì cây thiên lý là biểu tượng cho những người mẹ Việt Nam chân phương cao quý, một nắng hai sương tần tảo đêm ngày, chỉ biết hy sinh lo lắng cho chồng con để có được bữa cơm ngon, vòng tay che chở, và mái ấm gia đình hạnh phúc?

Quang Dương
12/2011